NGHI THỨC MẬT TÔNG
PHẬT MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ
Từ đây trở về sau, những đoạn nào có khép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng. Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, bút-giả xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua. Ðó là những ma-chướng nội-tâm, ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.
Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ. Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:
1. Lễ bái sám hối
2. Trì chú niệm Phật
3. Phát nguyện hồi hướng
Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc nhiều , còn tùy tâm chí-thành, sức trì-niệm của các hành-giả.
1. - PHẦN LỄ BÁI SÁM HỐI
( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT TƯỜNG, tay trái ngón cái nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ LAM.
sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần. Rồi tay mặt cũng kiết ấn vẽ vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)
PHỔ LỄ CHƠN NGÔN
UM ! PHẠ NHỰT RA VẬT
(7 lần)
( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối)
SÁM THẬP PHƯƠNG
Thập phương Tam-thế Phật
A-Di-Đà đệ nhứt,
Cửu phẩm độ chúng-sanh
Oai-đức vô cùng cực,
Ngã kim đại quy-y.
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi-hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây-phương cảnh,
Phân-minh tại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực-lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh-tử,
Như Phật-độ nhứt-thiết,
Vô-biên phiền-não đoạn,
Vô-lượng pháp môn tu;
Thệ nguyện độ chúng-sanh,
Tổng giai thành Phật đạo;
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,
Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như-Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,
Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy Phật học,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi-hướng.
Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,
Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,
Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,
Nhị đế dung thông tam-muội ấn,
Như thị vô-lượng công-đức hải,
Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,
Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,
Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,
Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng
Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,
Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,
Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,
Nãi chí hư-không thế-giới tận,
Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,
Như thị tứ pháp quảng vô-biên,
Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.
NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)
(Đứng lên chấp tay xướng)
Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)
2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ "LAM" sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.)
( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ "LAM" cùng chữ "HÙM" cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.
Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)
GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN
UM ! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA
( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhứt-thế Phật,
Tôn pháp chư Bồ tát,
Vô-biên Thanh văn chúng,
Cập nhứt thế Thánh-Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật-sự,
Phổ huân chư chúng-sanh,
Giai phát Bồ-Ðề tâm,
Viễn-ly chư vọng-nghiệp,
Viên-thành vô-thượng đạo.
NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A-Di-Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
NAM MÔ LIÊN TRÌ HẢI HỘI PHẬT BỒ TÁT (3 lần)
(Tụng tiếp)
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
UM ! SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SẠT VA ĐẠT MA,
SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.
UM ! LAM LAM LAM.
Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.
Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.)
HỘ THÂN CHƠN NGÔN
UM ! PHẠ NHỰT RA, A NGHĨ NI,
BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.
UM ! XỈ-LÂM XỈ-LÂM XỈ-LÂM.
(7 lần)
XỈ-LÂM
Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.
Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn "XỈ LÂM", khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.
Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm
HÙM
liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)
PHẬT MẪU CHUẨN-ÐỀ THẦN CHÚ
Khể thủ quy-y Tô-tất-đế,
Đầu diện đảnh lễ thất câu chi.
Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn-Ðề,
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ.
Nam-mô tát đa nẩm tam-miệu tam- bồ-đề, cu chi nẩm, đát điệt tha.
Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn-Ðề, ta bà ha.
( Na-mô táp đa nẫm, Sam miệu sam bụt-đà, Cu chi nẫm, Tát dã tha.
Úm
chiếc lệ chủ lệ Chuẩn-Đề Sóa-ha.)
(108 lần)
CHÚ
CHUẨN-ĐỀ
Na-mô
táp đa nẫm, Sam miệu sam bụt-đà, Cu chi nẫm, Tát
dã tha.
Úm
chiếc lệ chủ lệ Chuẩn-Đề Sóa-ha.
PHỤ-LỤC VỀ
CHÚ CHUẨN-ĐỀ
Như thế
tôi nghe, một thời đức Bạc-Dà-Phạm ở nơi Thệ-đa-lâm
vườn Cấp-Cô-Độc,
tại
thành lớn
Danh-Xưng, Xung quanh ngài có chư Bồ-tát,
các Đại-Tỳ-Khưu, và Thiên-Long-bát-bộ trước
sau vi nhiễu.
Bấy
giờ đức
Thế-Tôn
dùng tuệ-nhãn
quán-sát, nghĩ thương
chúng-sanh đời vị-lai
nghiệp
nhiều
phước mỏng,
liền
vào chuẩn-đề-tam-ma-địa,
nói ra môn đà-ra-ni mà bảy trăm ức
chư Phật đời
quá khứ đã
nói như sau:
Na-mô
táp đa nẫm, Sam miệu sam bụt-đà, Cu chi nẫm, Tát
dã tha.
Úm
chiếc lệ chủ lệ Chuẩn-Đề Sóa-ha.
Nếu
có hàng Bí-su, Bí-su-ni, Thiện-nam, Tín-nữ
nào, trụng
trì đà-ra-ni này đủ chín mươi muôn biến
thì những
tội Tứ-trọng,
Ngũ nghịch,
Thập-ác
đã tạo từ
vô-lượng
kiếp đến đời
hiện-tại
thảy đều
tiêu-diệt.
Về
sau tùy theo chỗ sanh, kẻ ấy
thường
được gặp
chư-Phật,
Bồ-tát,
giàu có sang trọng, tài bảo vật dụng
hằng
đầy-đủ.
Như kẻ đó
tại
gia, thì tu tập giới hạnh
bền
chắc
không lui sụt, thường được sanh lên cõi trời
hoặc
làm bậc
quyền
quí ở nhơn gian, dung nghi đoan chánh, lời
nói oai nghiêm, tâm không ưu-não,
được
chư thiên yêu kính hộ
trì, việc
làm thành-tựu, khỏi
các nạn
tai, và vĩnh-viễn không đọa
ác-đạo.
Nếu
xuất
gia, tất
giữ
tròn cấm
giới,
cầu
những
Tất-địa đều được
thành-tựu,
định
tuệ hiện
tiền,
tu tập
viên-mãn các ba-la-mật, mau chóng lên quả
Vô-thượng-chánh
đẳng
bồ-đề.
Khi tụng chú này mãn mười
muôn biến (số muôn của Ấn-độ khi xưa
có ba bậc: 10.000 – 100.000 – 1.000.000),
trong giấc mơ hành-giả sẽ thấy
chư Phật Bồ-tát
hiện
thân. Như tội nặng
chưa được thấy,
nên tụng
thêm mười
muôn biến nữa,
tất
trong mộng
sẽ thấy
mình mữa
ra vật
đen. Hoặc
thấy lầu
các của
chư thiên – thấy
lên núi cao-leo lên cây – tắm gội
trong ao lớn. Hoặc
thấy
mình bay lên hư
không tự tại –
thấy
chơi đùa với
các thiên nữ – nghe chư thánh thuyết
pháp. Hoặc
thấy
nhổ
tóc, cạo
tóc – ăn cơm để hồ –
uống
bạch-cam-lộ.
Hoặc
thấy vượt
qua sông to biển lớn –
lên ngồi
tòa sư tử.
Hoặc
thấy
cây Bồ-đề –
thấy cỡi
thuyền
– thấy sa môn – thấy cư-sĩ lấy
áo-vàng hay áo-trắng phủ
lên đầu.
Hoặc
thấy mặt
trời –
mặt
trăng – đồng nam – đồng
nữ –
leo lên cây trái sửa. Hoặc
thấy
người
đen đúa cao lớn miệng
phun ra lửa, mình đánh với họ được
thắng.
Hoặc
thấy
ngựa dữ,
trâu nước
đi đến
muốn cụng
húc, mình đánh hoặc nạt,
nó hoảng
sợ bỏ chạy
đi. Hoặc
thấy
mình ăn cháo sữa – thấy
quốc-vương – thấy
hoa trắng
có mùi thơm.
Khi thấy những
tướng
như thế,
nên biết tội
chướng
của
hành-giả đã
tiêu-diệt.
Nên tụng
đến
hai muôn biến mà không thấy
các tướng
như trên, tất
người ấy đời
trước
có tại tội
Ngũ-vô-gián. Phải chí tâm tụng
thêm bảy mươi muôn biến nữa,
quyết-định
sẽ được
thấy. KINH
PHẬT THUYẾT THẤT-CÂU-ĐỀ-PHẬT MẪU CHUẨN-ĐỀ ĐẠI-MINH ĐÀ-RA-NI.
(So theo hai bản dịch
của
ngài Kim-Cang-Trí và ngài Bất-Không)
Sau khi hành-giả tụng
đà-ra-ni này mãn chín mươi
muôn biến rồi,
muốn
tát pháp cầu nguyện
việc
chi, phải
giữ
thân ngữ ý
cho thanh-tịnh, tự sẽ thấy
hiệu-nghiệm.
Về
thân chẳng
hạn
như phải
giữ chắc bốn
giới:
sát, đạo,
dâm, tửu;
phải
thường
tắm gội
thay đổi
y-phục sạch
sẽ và
giữ
trang nghiêm bốn oai-nghi. Cũng không được
ăn ngũ-tân, thịt các loài vật lạ,
các thứ
hôi dơ, các thứ ăn
màu đen. Không được
ăn những
đồ đã
cúng dường
chư Phật Bồ-tát.
Khi đi đại-tiểu
xong phải tẩy tịnh
sạch
sẽ.
Không được
dùng ngón tay chà vào răng dùng móng tay khởi bợn
răng. Phải
súc miệng
kỹ trước
khi trì chú. Không được để
móng tay dơ.
Không được
vào nơi chỗ sản
phụ,
chỗ có
mùi hôi thây chết. Nếu
vào nhà xí, chỗ có nhiều
mùi hôi, y-phục bị vương uế-khí,
muốn
trì chú, phải tắm rửa thay
y-phục
khác. Không được
ngồi ở giường
Phật,
giường
Pháp, giường
bậc
Tăng trưởng-thượng
Đại đức.
Về ngữ,
phải
giữ bốn vọng
ngữ,
không được
nói lời
hí-hước
vô ích, hay khen mình, phanh-phui chê bai việc xấu của
người.
Không được
phô trương cảnh
giới
thắng
diệu của
mình, trừ
khi ra hỏi
han để cầu
quyết
trạch
nơi bậc
thiện-trí-thức.
Về ý,
phải
lìa những
niệm
dâm, nộ,
si, khi ác-niệm khởi
liền
niệm
Phật
hay chân-ngôn để trừ diệt.
Nếu
giữ
thân ngữ ý
được
trong sạch,
khi trì tụng chân-ngôn, sở cầu mới
thành tựu.
1. Nếu
muốn
biết
những
sở
nguyện về
sau được
thành-tựu
hay không, hành-giả lập
đàn ở nơi tịnh-thất,
lấy một
chiếc
bình hay cái chén sach, đốt hương xong khử trước,
rồi đựng
đầy nước
thơm hoặc nước
trong để trước
thánh-tượng.
Hành-giả
quì hướng
về phương Đông, tụng
Chuẩn-đề-chơn-ngôn 1.080 biến.
Nếu
thấy
bình hay chén chuyển động
xây về
bên mặt,
thì sở
nguyện đắc
thành. Như vẫn nằm
yên không chuyển động,
hoặc
xây chuyển về
bên trái, tất sở
nguyện
không thành tựu.
2. Nếu
muốn
biết
việc tốt xấu ở vị-lai,
có ba phương pháp:
1)- Lập
đàn thanh-tịnh, tìm đứa đồng-tử có
tướng
phước đức,
tắm gội
y-phục mới sạch
cho nó. Kế lấy hương thơm gia-trì chân-ngôn Bảy
biến
thoa vào đôi tay đồng-tử, lại
gia-trì bảy biến
chân-ngôn trong hoa để vào tay nó, rồi bảo
nó lấy
hai tay bịt mắt lại.
Xong hành-giả cầm một
cành hoa khác, tụng chú 108 biến,
cứ mỗi
biến đập
cành hoa vào lưng
đồng-tử một
cái. Khi tụng đủ số, đồng-tử bỗng
phát lên cười
múa, hỏi
việc
kiết
hung hỏi
nó liền
nói hết. (Pháp
này làm cho đồng-tử diệt tội sanh phước, không đồng
với cảnh ma ám nhập của
tà-chú.)
2)- An-trí
một tấm gương tròn lớn
trong đàn, rồi tụng
108 biến
chân-ngôn gia-trì vào cành hoa. Kế lại cầm
cành hoa tụng chú, cứ
xong mỗi
biến đập
hoa vào mặt gương một
cái. Mãn 108 biến, nơi mặt gương liền
hiện
chữ nói
rõ việc tốt xấu.
3)- Gia-trì
108 biến
chân-ngôn vào dầu thơm (hoặc
châu-sa), rồi lấy dầu
thoa nơi móng tay cái bên mặt của
mình. Xong, bảo đồng-tử để ý
xem nơi móng tay, dặn
nó nếu
thấy
việc
gì lạ
hãy nói lên; riêng phần hành-giả cứ ngồi tụng
chân-ngôn không cho đoạn tuyệt.
Trong móng tay sẽ hiện
lên hình tượng
Phật Bồ-tát,
nếu
hành-giả có
việc
nghi muốn
thỉnh-vấn,
liền
có chữ hoặc
các hình tượng
hiện
lên để trả lời.
3. Nếu
người
nào bị ma
quỷ ám
nhập
làm bịnh,
chú-sư có thể
dung ba cách để trị.
1)- Tụng
108 biến
chân-ngôn gia-trì vào cành dương liễu, hoặc
cành thạch
lựu,
cành đào hay cộng tranh. Kế tiếp tụng
chú vừa lấy
cành ấ
đánh vào bịnh nhơn, ma quỷ sẽ xuất.
2)- Tụng
108 biến
chân ngọn,
gia trì vào hột cải
trắng,
xong cứ tụng
mỗi
biến
chú liệng
một hột cải
vào mình bịnh nhơn. Mãn 21 biến,
loài ác ma sẽ trốn
chạy.
3)- Gia
trì 108 biến chân ngôn vào chỉ
ngũ sắc rồi
nhờ một đứa đồng
nữ,
se lại
theo chìu bên mặt. Kế đó
tụng
21 biến
chú, gút lại thành 21 gút. Dùng sợi
chỉ
này đeo vào cổ bịnh-nhơn, ma quỹ liền
xuất,
không còn dám xâm nhập. Phương-pháp sau này cũng áp-dụng
cho trẻ em
khóc đêm.
4. Nếu
có người bị bịnh
nặng,
muốn cứu
trị,
chú-sư mặc đồ trắng,
thức
cúng đường
đều
dùng sắc
trắng
rồi
kiết
giới,
lấy sữa
làm phép hộ-ma, tụng
1080 biến mỗi
biến đều
kêu gọi
tên họ người bịnh
khẩn-nguyện.
Bịnh-nhơn sẽ được lần lần
bình phục,
cho đến
khi an-lành.
5. Nếu kẻ
nào bị cảnh
gông tù xiềng xích. hay đi qua chỗ
nguy-hiểm,
nhiều
giặc cướp,
rắn độc,
thú dữ,
chỗ có
ác-quỷ, nơi sông biển
nhiều
sóng gió, thủy quái, thường cí tâm tụng
chú này tất được giải-thoát
bình yên.
6. Nếu
muốn cầu
tiêu trừ
tai-nạn,
cầu
y-phuc, thức ăn, vật-dụng,
thắng
kiện,
thăng quan chức, thi đâu, được
thuyên-chuyển nơi khác, cầu được
chồng
hay vợ hiền lương đoan chánh, cầu
sanh con trai hay gái, vợ chồng
bất
hòa ghét xa nhau cầu dược hòa thuận
thương-yêu; cho đến
có kẻ ác
thù oán, sắp làm hại,
muốn
cho họ trở
nên yêu-kính và thuận phục,
hành giả chỉ cần y
theo pháp thức: Tức
tai, Tăng-Ích, Kính-ái, Hàng-phục mà trì tụng,
tất sẽ được
như ý.
7. Nếu
thân mình mỏi mê đau nhức,
hoặc bị
các chứng
đầu-thống,
phúc-thống,
hay bịnh
rét, tụng
chân-ngôn này gia-trì vào tay 21 biết rồi
xoa bóp sẽ được an-lành.
8. Nếu
đi khất-thực
thường
trì tụng
đà-la-ni này, thì không bị người ác hoặc
chó dữ
xâm hại
khất-thực
cũng dễ được
9. Nếu
muốn cầu
thông-minh nên dùng vị thuốc thạch-xương-bồ và
ngưu-hoàng mỗi
thứ đều nữa lượng
tán mạt
hòa với sửa bột,
đựng
trong chén sạch để trước
thánh-tượng
trong mạn-đà-la.
Kế
chí tâm tụng chân-ngôn này năm ngàn biến rồi lấy
thuốc
đó uống,
sẽ được
thông minh
10. Nếu
lên đỉnh
núi cao tụng chân-ngôn ngày một
trăm ức
biến,
hành-giả sẽ được
Kim-Cang Thủ Bồ-tát
đưa vào cung A-tố-lạc,
hưởng
sự
vui-vẻ,
thọ mạng
lâu đến một
kiếp.
Và tương-lai sẽ thấy Từ-thị Như-Lai, nghe pháp đắc
quả,
không thối
chuyển nơi đạo Bồ-đề.
Tóm lại, những
chúng-sanh bạc phước, thiếu
căn lành, không có pần bồ-đề,
nên tụng
đại-minh
đà la ni một biến,
mầm bồ-đề liền
phát-sinh huống chi thường trì tụng
không thối bỏ, tất
xa lìa trần cấu,
công đức
không thể hạn lượng.
(chú
Chuẩn-đề gọi là Như-ý
bảo-châu, cộng lực đồng với Đại-Bi-Tùy-Tâm Đà-Ra-Ni muốn cầu sự gì
cũng được. Lược-trích quyển NIỆM TỤNG KIẾT HỘ-PHÁP PHỔ THÔNG CHƯ BỘ và kinh
PHẬT-THUYẾT THẤT-CÂU-ĐỀ-PHẬT MẪU CHUẨN-ĐỀ ĐẠI-MINH ĐÀ-RA-NI).
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.
Bút-giả vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.
Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề. Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.
Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. (
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
(Tụng VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A-Di-Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên hôm nay con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
(Kế tiếp niệm)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Ma Ra Na Ra [62]
Ta-bà ha [63]
Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Na Ra Cẩn Trì [49]
Na Ra Cẩn Trì [60]
Ta-bà ha [61]
Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Comments
Post a Comment