NGHI THỨC MẬT TÔNG


PHT MU CHUN-РTHN CHÚ

 

 

          Từ đây trở về sau, những đoạn nào có khép vòng đơn ( ), là các điều căn-dặn hoặc dẫn-giải, in bằng chữ nghiêng.  Chữ lớn thẳng là phần xướng-tụng hành-trì. Trải nhiều năm kinh-nghiệm, bút-giả xét thấy các hành-giả thời nay có những ma-chướng, mà đạo-lực kém-yếu của phần đông người thời mạt-pháp khó nổi vượt qua.  Ðó là những ma-chướng nội-tâm,  ma-chướng ngoại-cảnh và ma-chướng thuộc giới vô-hình. Vì thế, sau khi nghiên-cứu trong Ðại-tạng, tệ-nhơn đã dựa vào kinh-nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung-hợp môn tu Tịnh-độ thuộc Mật-giáo cùng Hiển-giáo soạn ra nghi-thức nầy.

           Trong đây chú-trọng về sự khái-quát đơn-giản, lời gọn mà ý-tứ đầy-đủ.  Pháp-nghi nói sau chia ra làm ba phần:

     

1. Lễ bái sám hối

2. Trì chú niệm Phật

3. Phát nguyện hồi hướng

 

Xin lưu-ý, Pháp-nghi chỉ là hình-thức, là khuôn-mẫu, để cho “hành-giả” nương vào nơi sự-tướng mà tiến-tu, mà hướng về chơn-cảnh. Còn tiến-trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công-đức ít hoặc  nhiều , còn tùy tâm chí-thành,  sức trì-niệm của các hành-giả.     

 


 

1. - PHẦN LỄ BÁI SÁM HỐI




 

( Trước tiên rửa tay, rửa mặt, lễ phục nghiêm-chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, Hành-giả dùng ẤN KIẾT TƯỜNG, tay trái ngón cái  nắm co đầu ngón vô danh, vẽ và tưởng chữ LAM. 

 




sắc trắng trong lòng tay mặt 3 lần.  Rồi tay mặt cũng kiết ấn  vẽ  vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chấp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán)

 

  

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhơn chi Ðạo-sư

Tứ-sanh chi từ-phụ

Ư nhứt niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo-tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.


 

(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)

 


PHỔ LỄ CHƠN NGÔN


UM PHẠ NHỰT RA VẬT 


(7 lần)

 


            ( Trong khi tụng chú, kiết ẤN KIM CANG HIỆP CHƯỞNG để trên đầu, chấp hai tay lại  ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật-giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp pháp-hội 10 phương, lễ kính chư PHẬT. Xong xả ấn ngay nơi đảnh.)



CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trụ Tam-Bảo. (1 lạy)

 

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)

 

CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

 


(Kế tiếp, quỳ trước bàn Phật, chấp tay, chí-thành, đọc bài kệ Sám-hối)

 


 

SÁM THẬP PHƯƠNG 


 

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Đà đệ nhứt,

Cửu phẩm độ chúng-sanh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Phàm hữu chư phước thiện,

Chí tâm dụng hồi-hướng.

Nguyện đồng niệm Phật nhơn,

Cảm ứng tùy thời hiện,

Lâm chung Tây-phương cảnh,

Phân-minh tại mục tiền,

Kiến văn giai tinh tấn,

Đồng sanh Cực-lạc quốc,

Kiến Phật liễu sanh-tử,

Như Phật-độ nhứt-thiết,

Vô-biên phiền-não đoạn,

Vô-lượng pháp môn tu;

Thệ nguyện độ chúng-sanh,

Tổng giai thành Phật đạo;

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

 

Nhứt giả lễ kính chư Phật,

Nhị giả xưng tán Như-Lai,

Tam giả quảng tu cúng-dường,

Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng,

Ngũ giả tùy-hỉ công-đức,

Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân,

Thất giả thỉnh Phật trụ thế,

Bát giả thường tùy Phật học,

Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,

Thập giả phổ giai hồi-hướng.

 

Nguyện tương dĩ thử thắng công-đức,

Hồi-hướng vô-thượng chơn pháp-giới,

Tánh tướng Phật, Pháp cập Tăng-già,

Nhị đế dung thông tam-muội ấn,

Như thị vô-lượng công-đức hải,

Ngã kim giai tất tận hồi-hướng,

Sở hữu chúng-sanh thân, khẩu, ý,

Kiến hoặc đàn báng ngã pháp đẳng,

Như thị nhứt thiết chư nghiệp-chướng

Tất giai tiêu-diệt tận vô dư,

Niệm niệm trí châu ư pháp-giới,

Quảng độ chúng-sanh giai bất thối,

Nãi chí hư-không thế-giới tận,

Chúng-sanh cập nghiệp phiền-não tận,

Như thị tứ pháp quảng vô-biên,

Nguyện kim hồi-hướng diệc như-thị.

 

NAM MÔ ÐẠI HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT. (3 lần)

 

 

(Đứng lên chấp tay xướng)

 

Ðệ-tử Sám-hối, phát-nguyện rồi, chí-tâm đảnh-lễ Tam-bảo. (1 lạy)    

 

 

2.- PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT


 


( Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi Tưởng chữ  "LAM" sắc Trắng trên đầu, phóng ánh sáng Đỏ.) 





( Kế dùng ấn Kiết tường Viết và Tưởng chữ "LAM" cùng chữ "HÙM" cũng đều sắc Trắng, gia trì Hai lòng bàn tay và Chuỗi, mỗi nơi ba lần.

 

Lại tiếp dùng ấn Kiết tường, gia trì SỔ CHÂU chân ngôn sau đây nơi tràng Chuỗi, xong búng Ba cái, xả ấn trên Đảnh.)

                


GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN

 

UM ! VAI RÔ CA NA MA RA XÓA HA 


 (7 lần)


( Xả ấn xong, vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán)

 

Nguyện thử diệu hương vân,

Biến mãn thập phương giới,

Cúng dường nhứt-thế Phật,

Tôn pháp chư Bồ tát,

Vô-biên Thanh văn chúng,

Cập nhứt thế Thánh-Hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tánh tác Phật-sự,

Phổ huân chư chúng-sanh,

Giai phát Bồ-Ðề tâm,

Viễn-ly chư vọng-nghiệp,

Viên-thành vô-thượng đạo.

 

NAM MÔ HƯƠNG VÂN CÁI B TÁT MA HA TÁT (3 ln)


 

(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)

         

Quang, thọ khó suy lường,

Sáng lặng khắp mười phương.

Thế Tôn Vô Lượng Quang,

Cha lành cõi Liên ban.

Thần lực chẳng tư nghì,

Sống lâu A tăng kỳ.

A-Di-Đà Như Lai,

Tiếp dẫn lên liên đài.

Cực Lạc cõi thuần tịnh,

Công đức lạ trang nghiêm.

Nơi tất cả quần sanh,

Vượt lên ngôi Bất thối.

Mười phương hằng sa Phật.

Đều ngợi khen Vô Lượng.

Cho nên hôm nay con,

Nguyện sanh về An Dưỡng.


NAM MÔ LIÊN TRÌ HI HI PHT B TÁT (3 ln)

 

(Tụng tiếp)


 

PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN


UM ! SOA PHẠ VA SUÝT ĐA, SẠT VA ĐẠT MA,

SOA PHẠ VA SUÝT ĐA HÀM.

UM ! LAM LAM LAM.





HÀM



LAM


 



Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm co ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai lại, hai ngón giữa dụm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh.

 

Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này, tội chướng đều được tiêu trừ, có thể thành tựu các việc thù thắng.) 


 

HỘ THÂN CHƠN NGÔN

 

       UM !  PHẠ NHỰT RA, A NGHĨ NI, 

BÁ RA NĂM BÌ ĐÁ DA, XÓA HA.

 UM ! XỈ-LÂM XỈ-LÂM XỈ-LÂM.


(7 lần)




XỈ-LÂM





Khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa.

Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bát đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn "XỈ LÂM", khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời, liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn nầy có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người quanh. Các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiềng thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh.




Kế hai tay đều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm 


 HÙM


liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)


 

PHT MU CHUN-РTHN CHÚ


 

Kh th quy-y Tô-tt-đế,

Đu din đnh l tht câu chi.

Ngã kim xưng tán Ði Chun-Ð,

Duy nguyn t bi thùy gia h.


 

Nam-mô tát đa nm tam-miu tam- b, cu chi nm, đát đit tha.

Án, chiết l ch l Chun-Ð, ta bà ha.


( Na-mô táp đa nm, Sam miu sam bt-đà, Cu chi nm, Tát dã tha.

Úm chiếc l ch l Chun-Đ Sóa-ha.)

 

 UM! BÚT RUM!  HÙM


(108 lần)



CHÚ CHUN-Đ

 

Na-mô táp đa nm, Sam miu sam bt-đà, Cu chi nm, Tát dã tha.

Úm chiếc l ch l Chun-Đ Sóa-ha.

 

 

 

PH-LC V CHÚ CHUN-Đ



Như thế tôi nghe, mt thi đc Bc-Dà-Phm nơi Th-đa-lâm vưn Cp-Cô-Đc, ti thành ln Danh-Xưng, Xung quanh ngài có chư B-tát, các Đi-Tỳ-Khưu, và Thiên-Long-bát-b trưc sau vi nhiu.

 

By gi đc Thế-Tôn dùng tu-nhãn quán-sát, nghĩ thương chúng-sanh đi v-lai nghip nhiu phưc mng, lin vào chun-đ-tam-ma-đa, nói ra môn đà-ra-ni mà by trăm c chư Pht đi quá kh đã nói như sau:

 

Na-mô táp đa nm, Sam miu sam bt-đà, Cu chi nm, Tát dã tha.

Úm chiếc l ch l Chun-Đ Sóa-ha.

 

Nếu có hàng Bí-su, Bí-su-ni, Thin-nam, Tín-n nào, trng trì đà-ra-ni này đ chín mươi muôn biến thì nhng ti T-trng, Ngũ nghch, Thp-ác đã to t vô-lưng kiếp đến đi hin-ti thy đu tiêu-dit. V sau tùy theo ch sanh, k y thưng đưc gp chư-Pht, B-tát, giàu có sang trng, tài bo vt dng hng đy-đ. Như k đó ti gia, thì tu tp gii hnh bn chc không lui st, thưng đưc sanh lên cõi tri hoc làm bc quyn quí nhơn gian, dung nghi đoan chánh, li nói oai nghiêm, tâm không ưu-não, đưc chư thiên yêu kính h trì, vic làm thành-tu, khi các nn tai, và vĩnh-vin không đa ác-đo. Nếu xut gia, tt gi tròn cm gii, cu nhng Tt-đa đu đưc thành-tu, đnh tu hin tin, tu tp viên-mãn các ba-la-mt, mau chóng lên qu Vô-thưng-chánh đng b.

 

Khi tng chú này mãn mưi muôn biến (s muôn ca n-đ khi xưa có ba bc: 10.000 – 100.000 – 1.000.000), trong gic mơ hành-gi s thy chư Pht B-tát hin thân. Như ti nng chưa đưc thy, nên tng thêm mưi muôn biến na, tt trong mng s thy mình ma ra vt đen. Hoc thy lu các ca chư thiên – thy lên núi cao-leo lên cây – tm gi trong ao ln. Hoc thy mình bay lên hư không t ti – thy chơi đùa vi các thiên n –  nghe chư thánh thuyết pháp. Hoc thy nh tóc, co tóc – ăn cơm đ h – ung bch-cam-l. Hoc thy vưt qua sông to bin ln – lên ngi tòa sư t. Hoc thy cây B – thy ci thuyn –  thy sa môn – thy cư-sĩ ly áo-vàng hay áo-trng ph lên đu. Hoc thy mt tri – mt trăng – đng nam – đng n – leo lên cây trái sa. Hoc thy ngưi đen đúa cao ln ming phun ra la, mình đánh vi h đưc thng. Hoc thy nga d, trâu nưc đi đến mun cng húc, mình đánh hoc nt, nó hong s b chy đi. Hoc thy mình ăn cháo sa – thy quc-vương – thy hoa trng có mùi thơm.

 

Khi thy nhng tưng như thế, nên biết ti chưng ca hành-gi đã tiêu-dit. Nên tng đến hai muôn biến mà không thy các tưng như trên, tt ngưi y đi trưc có ti ti Ngũ-vô-gián. Phi chí tâm tng thêm by mươi muôn biến na, quyết-đnh s đưc thy. KINH PHT THUYT THT-CÂU-Đ-PHT MU CHUN-Đ ĐI-MINH ĐÀ-RA-NI.

(So theo hai bn dch ca ngài Kim-Cang-Trí và ngài Bt-Không)

 

Sau khi hành-gi tng đà-ra-ni này mãn chín mươi muôn biến ri, mun tát pháp cu nguyn vic chi, phi gi thân ng ý cho thanh-tnh, t s thy hiu-nghim. V thân chng hn như phi gi chc bn gii: sát, đo, dâm, tu; phi thưng tm gi thay đi y-phc sch s và gi trang nghiêm bn oai-nghi. Cũng không đưc ăn ngũ-tân, tht các loài vt l, các th hôi dơ, các th ăn màu đen. Không đưc ăn nhng đ đã cúng dưng chư Pht B-tát. Khi đi đi-tiu xong phi ty tnh sch s. Không đưc dùng ngón tay chà vào răng dùng móng tay khi bn răng. Phi súc ming k trưc khi trì chú. Không đưc đ móng tay dơ. Không đưc vào nơi ch sn ph, ch có mùi hôi thây chết. Nếu vào nhà xí, ch có nhiu mùi hôi, y-phc b vương uế-khí, mun trì chú, phi tm ra thay y-phc khác. Không đưc ngi giưng Pht, giưng Pháp, giưng bc Tăng trưng-thưng Đi đc. V ng, phi gi bn vng ng, không đưc nói li hí-hưc vô ích, hay khen mình, phanh-phui chê bai vic xu ca ngưi. Không đưc phô trương cnh gii thng diu ca mình, tr khi ra hi han đ cu quyết trch nơi bc thin-trí-thc. V ý, phi lìa nhng nim dâm, n, si, khi ác-nim khi lin nim Pht hay chân-ngôn đ tr dit. Nếu gi thân ng ý đưc trong sch, khi trì tng chân-ngôn, s cu mi thành tu.

 

1. Nếu mun biết nhng s nguyn v sau đưc thành-tu hay không, hành-gi lp đàn nơi tnh-tht, ly mt chiếc bình hay cái chén sach, đt hương xong kh trưc, ri đng đy nưc thơm hoc nưc trong đ trưc thánh-tưng. Hành-gi quì hưng v phương Đông, tng Chun-đ-chơn-ngôn 1.080 biến. Nếu thy bình hay chén chuyn đng xây v bên mt, thì s nguyn đc thành. Như vn nm yên không chuyn đng, hoc xây chuyn v bên trái, tt s nguyn không thành tu.

 

2. Nếu mun biết vic tt xu v-lai, có ba phương pháp:

1)- Lp đàn thanh-tnh, tìm đa đng-t có tưng phưc đc, tm gi y-phc mi sch cho nó. Kế ly hương thơm gia-trì chân-ngôn By biến thoa vào đôi tay đng-t, li gia-trì by biến chân-ngôn trong hoa đ vào tay nó, ri bo nó ly hai tay bt mt li. Xong hành-gi cm mt cành hoa khác, tng chú 108 biến, c mi biến đp cành hoa vào lưng đng-t mt cái. Khi tng đ s, đng-t bng phát lên cưi múa, hi vic kiết hung hi nó lin nói hết. (Pháp này làm cho đng-t dit ti sanh phưc, không đng vi cnh ma ám nhp ca tà-chú.)

2)-  An-trí mt tm gương tròn ln trong đàn, ri tng 108 biến chân-ngôn gia-trì vào cành hoa. Kế li cm cành hoa tng chú, c xong mi biến đp hoa vào mt gương mt cái. Mãn 108 biến, nơi mt gương lin hin ch nói rõ vic tt xu.

3)- Gia-trì 108 biến chân-ngôn vào du thơm (hoc châu-sa), ri ly du thoa nơi móng tay cái bên mt ca mình. Xong, bo đng-t đ ý xem nơi móng tay, dn nó nếu thy vic gì l hãy nói lên; riêng phn hành-gi c ngi tng chân-ngôn không cho đon tuyt. Trong móng tay s hin lên hình tưng Pht B-tát, nếu hành-gi có vic nghi mun thnh-vn, lin có ch hoc các hình tưng hin lên đ tr li.

 

3. Nếu ngưi nào b ma qu ám nhp làm bnh, chú-sư có th dung ba cách đ tr.

1)- Tng 108 biến chân-ngôn gia-trì vào cành dương liu, hoc cành thch lu, cành đào hay cng  tranh. Kế tiếp tng chú va ly cành đánh vào bnh nhơn, ma qu s xut.

2)- Tng 108 biến chân ngn, gia trì vào ht ci trng, xong c tng mi biến chú ling mt ht ci vào mình bnh nhơn. Mãn 21 biến, loài ác ma s trn chy.

3)- Gia trì 108 biến chân ngôn vào ch ngũ sc ri nh mt đa đng n, se li theo chìu bên mt. Kế đó tng 21 biến chú, gút li thành 21 gút. Dùng si ch này đeo vào c bnh-nhơn, ma qu lin xut, không còn dám xâm nhp. Phương-pháp sau này cũng áp-dng cho tr em khóc đêm.

 

4. Nếu có ngưi b bnh nng, mun cu tr, chú-sư mc đ trng, thc cúng đưng đu dùng sc trng ri kiết gii, ly sa làm phép h-ma, tng 1080 biến mi biến đu kêu gi tên h ngưi bnh khn-nguyn. Bnh-nhơn s đưc ln ln bình phc, cho đến khi an-lành.

 

5. Nếu k nào b cnh gông tù xing xích. hay đi qua ch nguy-him, nhiu gic cưp, rn đc, thú d, ch có ác-qu, nơi sông bin nhiu sóng gió, thy quái, thưng cí tâm tng chú này tt đưc gii-thoát bình yên.

 

6. Nếu mun cu tiêu tr tai-nn, cu y-phuc, thc ăn, vt-dng, thng kin, thăng quan chc, thi đâu, đưc thuyên-chuyn nơi khác, cu đưc chng hay v hin lương đoan chánh, cu sanh con trai hay gái, v chng bt hòa ghét xa nhau cu dưc hòa thun thương-yêu; cho đến có k ác thù oán, sp làm hi, mun cho h tr nên yêu-kính và thun phc, hành gi ch cn y theo pháp thc: Tc tai, Tăng-Ích, Kính-ái, Hàng-phc mà trì tng, tt s đưc như ý.

 

7. Nếu thân mình mi mê đau nhc, hoc b các chng đu-thng, phúc-thng, hay bnh rét, tng chân-ngôn này gia-trì vào tay 21 biết ri xoa bóp s đưc an-lành.

 

8. Nếu đi kht-thc thưng trì tng đà-la-ni này, thì không b ngưi ác hoc chó d xâm hi kht-thc cũng d đưc

 

9.  Nếu mun cu thông-minh nên dùng v thuc thch-xương-b và ngưu-hoàng mi th đu na lưng tán mt hòa vi sa bt, đng trong chén sch đ trưc thánh-tưng trong mn-đà-la. Kế chí tâm tng chân-ngôn này năm ngàn biến ri ly thuc đó ung, s đưc thông minh

10. Nếu lên đnh núi cao tng chân-ngôn ngày mt trăm c biến, hành-gi s đưc Kim-Cang Th B-tát đưa vào cung A-t-lc, hưng s vui-v, th mng lâu đến mt kiếp. Và tương-lai s thy T-th Như-Lai, nghe pháp đc qu, không thi chuyn nơi đo B.

Tóm li, nhng chúng-sanh bc phưc, thiếu căn lành, không có pn b, nên tng đi-minh đà la ni mt biến, mm b lin phát-sinh hung chi thưng trì tng không thi b, tt xa lìa trn cu, công đc không th hn lưng.

(chú Chun-đ  gi là Như-ý bo-châu, cng lc đng vi Đi-Bi-Tùy-Tâm Đà-Ra-Ni mun cu s gì cũng đưc. Lưc-trích quyn NIM TNG KIT H-PHÁP PH THÔNG CHƯ B và kinh PHT-THUYT THT-CÂU-Đ-PHT MU CHUN-Đ ĐI-MINH ĐÀ-RA-NI).

 

Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo. Các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú nầy.

Bút-gi vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn khuấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn nầy đi tiên phong dẹp chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh túc tập và sở báo đều khác.

Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề.  Và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tụng môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật.

Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai, bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu phối hợp lại, tất công năng vãng sanh càng thêm kiến hiệu.)



 MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

 

Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh, diệc vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu tam bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:

 

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA. (3 lần)



BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN

ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI

 

NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.

A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA. (21 lần)

 


VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN

 

NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA. 

NAM MÔ A RỊ DA.  A MI TÁ BÀ DA.  TÁT THA GA TÁ DA.  A RA HA TI.  SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA.  TÁT DA THA. 

UM !  A MI RỊ TI.  A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ.  A MI RỊ TÁ GA BÊ.  A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ.  A MI RỊ TÁ SI TÊ.  A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.

A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ.  A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI.  A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI.  SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI.  SẠT VA MA CA LI.  SA KHẤT SÁ DU CA LI.  SÓA HA.

 

UM! BÚT RUM!  HÙM!

 

(21 lần)



(Tụng VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN xong, tiếp chắp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.)



Quang, thọ khó suy lường,

Sáng lặng khắp mười phương.

Thế Tôn Vô Lượng Quang,

Cha lành cõi Liên ban.

Thần lực chẳng tư nghì,

Sống lâu A tăng kỳ.

A-Di-Đà Như Lai,

Tiếp dẫn lên liên đài.

Cực Lạc cõi thuần tịnh,

Công đức lạ trang nghiêm.

Nơi tất cả quần sanh,

Vượt lên ngôi Bất thối.

Mười phương hằng sa Phật.

Đều ngợi khen Vô Lượng.

Cho nên hôm nay con,

Nguyện sanh về An Dưỡng.

 

 

NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI

ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT

        

  (Kế tiếp niệm)

 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

 

( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.

          Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:

 

1 – Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.

 

2 – Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.

 

3 –Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt.  Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.

 

4 – Tịch tĩnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.

 

          Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)

 

 

3.- PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

 

(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm)

 

Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)

Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)

Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3 câu)


 

(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)

 

Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.

 

Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.

         

          ( Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)

 


NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: 


Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy) 

 

Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)

Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)

Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)







NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: 


        Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)



UM! BÚT-RUM!  HÙM!





Câu: “UM! BÚT RUM!  HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu. 


CHUNG





Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi Tay cầm dây Quyến-Sách.

    

2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp


Ma Ra Na Ra [62] 

Ta-bà ha [63]

Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.


UM! BÚT RUM!  HÙM!








Nếu mun tt c ngưi trong quyến-thuc đưc hòa thun nhau, nên cu  nơi Tay cm cái H-Bình.


14. Hồ-Bình Thủ Nhãn Ấn Pháp


Na Ra Cẩn Trì [49]


Na Ra Cẩn Trì [60]

Ta-bà ha [61]


Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.


UM! BÚT RUM!  HÙM!




Comments

Popular posts from this blog