KINH
QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ
PHẦN TỰ
Như thế tôi nghe, một thời Phật ở tại non Kỳ Xà Quật thuộc thành
Vương Xá. Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc đại tỳ-khưu. Nơi chúng hội
đây, lại có ba vạn hai ngàn vị Bồ-tát, trong ấy ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương
là bậc thượng thủ.
Bấy giờ trong Vương Xá đại thành có vị Thái Tử tên là A Xà Thế,
nghe theo lời xúi giục của ông bạn ác Điều Đạt, bắt vua cha là Tần Bà Sa La
giam trong ngục kín dầy đến bảy lớp cửa, Thái Tử lại ra lịnh cấm các quan,
không cho một ai được đến thăm.
Lúc đó A Xà Thế đến hỏi người giữ cửa rằng : “Phụ vương ta hôm
nay còn sống chăng?” Viên thủ ngục đáp: “Tâu đại vương! Do quốc thái phu nhân
thoa bột với mật vào thân và đựng nước trái nho trong hạt chuỗi đem cung phụng;
lại có hai sa môn là Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na bay đến truyền giới thuyết pháp
không thể ngăn cấm, nên hiện tại đức vua vẫn bình yên". A Xà Thế nghe
xong, nổi giận bảo: "Mẹ ta là giặc vì đã làm bạn với kẻ giặc. Bọn Sa môn
kia là hạng người xấu, dùng chú thuật làm cho tên ác vương ấy nhiều ngày không
chết!" Nói đoạn, rút gươm muốn đến giết mẹ.
Đang khi ấy, có hai vị đại thần thông minh tài trí là Nguyệt
Quang, Kỳ Bà, thấy thế vội quỳ xuống làm lễ và can gián rằng: "Tâu đại
vương! Chúng tôi nghe trong kinh Tỳ Đà La nói từ thuở kiếp sơ đến nay những ác
vương tham ngôi báu mà giết hại cha có một vạn tám ngàn người; song chưa từng
nghe có ông vua nào giết mẹ. Nay nếu đại vương làm việc ác nghịch trái đạo này,
tức là để vết nhơ cho dòng giống Sát Đế Lỵ, nào khác gì hạng Chiên Đà La. Bọn
thần không nỡ ở lại trông nhìn cảnh tượng ấy, vậy xin từ nay bái biệt!"
Nói xong đứng lên đưa tay đè chuôi gươm rồi thối lui quay đi.
A Xà Thế nghe qua kinh sợ bảo: "Các ông không vì ta
sao?" Kỳ Bà thưa: "Nếu đại vương muốn cho chúng tôi ở lại giúp đỡ,
xin đừng giết hại quốc thái". A Xà Thế nghe nói, tỏ vẻ ăn năn, vội cất
gươm bỏ ý nghĩ giết mẹ, sai nội quan cầm quốc thái phu nhơn trong thâm cung,
không cho ra ngoài nữa.
Vi Đề Hy phu-nhơn bị u cấm, sầu lo tiều tụy, xa trông về non Kỳ Xà Quật đảnh lễ Phật và bạch rằng: "Đức Như Lai Thế Tôn! Lúc trước ngài thường bảo hiền giả A Nan đến thăm viếng và khuyên dạy con. Nay con có việc lo buồn, không làm sao còn được thấy oai nghi trang trọng của đấng Thiên Nhơn Sư nữa! Xin Đức Thế Tôn thương xót cho hai vị tôn giả Mục Liên, A Nan đến dạy dỗ con”. Bạch xong lời ấy, bà thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa, hướng về chỗ Phật thường ngự, cúi đầu đảnh lễ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang ở núi Kỳ Xà Quật biết rõ tâm niệm bà Vi
Đề Hy, liền bảo hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan theo lời yêu thỉnh bay đến cấm
thất. Và chính Ngài cũng ẩn thân tại núi Kỳ Xà Quật, hiện ra nơi vương cung.
Khi bà Vi Đề Hy lễ xuống vừa ngước đầu lên, đã thấy Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn
ngồi trên tòa sen bá bảo, thân sắc tử kim rực rỡ, bên tả có Mục Liên, bên hữu
có A Nan đồng đứng hầu. Trên hư không, các Phạm Vương, Đế Thích và Hộ Thế chư
thiên mưa nhiều thứ hoa đẹp ở cõi trời phơi phới bay xuống để cúng dường Phật.
Vi Đề Hy phu nhân thấy Đức Thế Tôn, liền tự bứt chuỗi Anh Lạc
đeo nơi thân, gieo mình phủ phục xuống đất, khóc lóc và thưa rằng: “Bạch đức
Thế Tôn! Kiếp trước con có tội chi nay sanh ra đứa con ác này. Và đức Như Lai
lại có nhân duyên gì, mà cùng với Đề Bà Đạt Đa đồng làm quyến thuộc? Cúi xin
đức Thế Tôn vì con giảng giải rộng những cõi nào không còn lo buồn khổ lụy để
con được vãng sanh về đó. Hiện nay con rất nhàm chán cõi Diêm Phù Đề nhơ khổ,
bởi cõi này dẫy đầy chúng địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, cùng nhiều điều lỗi lầm
xấu ác. Con nguyện kiếp sau không còn thấy người dữ, không còn nghe tiếng ác
nữa! Nay con gieo năm vóc trước Đức Thế Tôn, tha thiết cầu xin sám hối! Nguyện
đấng Ðại Từ soi ánh huệ nhật, chỉ dạy cho con phép quán để sanh về chỗ nghiệp
lành thanh tịnh”.
PHẦN CHÁNH TÔNG
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ nơi tướng bạch hào giữa đôi mi, phóng
ra ánh sáng vàng rực rỡ soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Hào quang ấy
trở lại trụ trên đảnh của Phật, hóa thành đài vàng như núi Tu Di. Những cõi
nước trong sạch nhiệm mầu của chư Phật mười phương đều hiện rõ nơi tòa quang
minh đó. Trong vô số quốc độ ảnh hiện ấy, có cõi do bảy báu hợp thành, có cõi
thuần là hoa sen, có cõi tráng lệ như cung trời Đại Tự Tại, có cõi sáng suốt
như gương pha lê.
Vô lượng Tịnh Ðộ hiện bóng nơi đài quang minh, mỗi miền một vẻ
rất rõ ràng, cực nghiêm đẹp. Sau khi dùng thần thông hiển thị các cõi trang
nghiêm xong, đức Thế Tôn bảo bà Vi Đề Hy nên tùy ý mình lựa quốc độ nào mà tâm
mình ưa thích.
Bà Vi Đề Hy phu nhơn quan sát kỹ các Phật quốc rồi thưa rằng:
"Bạch đức Thế Tôn! Các Tịnh Ðộ ấy tuy đều nghiêm sạch và có ánh quang
minh, nhưng nay con chỉ thích được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà.
Cúi xin đức Thế Tôn dạy con phép tư duy và chánh thọ".
Khi ấy đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ nơi miệng tuôn ra năm sắc
quang minh, mỗi tia sáng đều chiếu đến đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La. Lúc đó Tần Bà
Sa La vương tuy bị giam cầm song tâm nhãn không chướng ngại từ nơi xa trông
thấy đức Thế Tôn liền cúi đầu đảnh lễ, đạo căn tự nhiên tăng tiến, chứng được
quả A Na Hàm.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Vi Đề Hy: "Ngươi có biết chăng?
Phật A Di Đà cách đây không xa, ngươi nên hệ niệm và quán sát kỹ cõi nước kia,
tất tịnh nghiệp sẽ được thành tựu. Nay ta vì ngươi nói rộng các thí dụ, cũng
khiến cho đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu tịnh nghiệp, được sanh về thế
giới Cực Lạc ở phương Tây.
Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước:
1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ bi không
giết hại, tu mười nghiệp lành.
2. Thọ trì Tam Quy, giữ vẹn các giới, đừng phạm oai nghi.
3. Phát lòng Bồ Ðề tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh Ðại Thừa,
khuyến tấn người tu hành.
Ba điều như thế, gọi là tịnh nghiệp.
Đức Phật lại bảo: "Vi đề Hy nên biết ba thứ phước này là
chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời: quá khứ, vị lai, và hiện
tại".
Đức Thế Tôn khen Vi Đề Hy và bảo A Nan: "Lành thay, Vi Đề
Hy! Hôm nay người đã khéo hỏi việc ấy! Hãy chú tâm lắng nghe và suy nghĩ kỹ.
Như Lai sẽ vì tất cả chúng sanh bị giặc phiền não bức hại đời vị lai mà nói ra
nghiệp thanh tịnh.
Này A Nan! ông nên ghi nhớ và thọ trì pháp này, rồi tuyên thuyết
cho đại chúng cùng biết. Nay ta sắp dạy Vi Đề Hy và chúng sanh đời sau phép
quán thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Do nhờ sức Phật, hành giả sẽ được thấy cõi
nước thanh tịnh kia như người cầm gương sáng tự trong thấy mặt mình. Khi hành
nhơn thấy sự vui rất mầu nhiệm ở cõi kia rồi, sanh lòng vui mừng, liền được trụ
vào Vô Sanh Pháp Nhẫn".
Phật bảo Vi Đề Hy: "Ngươi là phàm phu, tâm tưởng yếu kém,
chưa được thiên nhãn, không thể ở xa mà trông thấy cõi Cực Lạc. Chư Phật Như
Lai có phương tiện lạ khiến cho ngươi được thấy cõi kia"
Vi Đề Hy thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay con nhờ sức Phật
được thấy quốc độ kia. Nếu sau khi Thế Tôn tịch diệt, những chúng sanh trược ác
không lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm thế nào để được thấy Phật A Di Đà và
cõi Cực Lạc?
MƯỜI
SÁU PHÉP QUÁN
1. - QUÁN MẶT TRỜI SẮP LẶN
(NHẬT QUÁN)
Đức Phật bảo: "Vi Đề Hy! Ngươi và chúng sanh nên chuyên
tâm, buộc niệm một chỗ, để tưởng cảnh giới Tây Phương. Phương pháp này quán
tưởng ấy như thế nào?
Phàm tất cả những người nếu không phải bị mù từ lúc sơ sanh đều
thấy mặt trời lặn. Vậy ngươi nên ngồi ngay thẳng, hướng về phương Tây, tâm chú
định một chỗ không được di động, rồi quán tưởng mặt trời sắp lặn hình như cái
trống treo. Khi đã thấy hình tướng ấy, phải chú tưởng cho thuần thục, làm sao
lúc nhắm mắt, mở mắt đều được thấy rõ ràng. Môn Nhật Quán này là phương pháp
quán tưởng thứ nhứt.
2.- QUÁN NƯỚC ÐÓNG THÀNH BĂNG
(THỦY QUÁN)
Kế lại quán tưởng nước, thấy một vùng nước trong suốt đứng lặng;
phải thấy cho rõ ràng, ý đừng phân chia rối loạn. Khi thấy tướng ấy rồi nên
tưởng nước đóng thành băng. Đã thấy băng trong ngần sáng ánh, lại tưởng đó là
đất lưu ly.
Đây là môn thủy tưởng, cũng là phép quán thứ hai.
3.- QUÁN CẢNH TƯỚNG TRÊN DƯỚI ÐẤT LƯU LY
(BẢO ÐỊA QUÁN)
Môn tưởng này thành rồi, tiếp quán thấy đất lưu ly trong ngoài
chói suốt. Dưới ấy có tràng kim cương thất bảo vàng ánh đỡ đất lưu ly. Tràng
này có đủ tám góc theo tám phương, mỗi mỗi phương diện do trăm thứ báu hợp
thành, mỗi mỗi bảo châu có ngàn tia sáng, mỗi mỗi tia sáng có tám vạn bốn ngàn
màu, chói đất lưu ly như ngàn ức mặt trời, nhìn không thể xiết!
Trên đất lưu ly có dây hoàng kim xen lẫn cùng thất bảo, phân
chia các khu vực rành rẽ trang nghiêm. Mỗi mỗi thứ báu có năm trăm sắc kỳ
quang. Các ánh sáng này hình như hoa, hoặc như trăng, sao, chiếu lên hư không,
kết thành đài quang minh lơ lửng. Ngàn muôn lâu các do trăm thứ báu hợp thành,
mỗi mỗi lâu đài, hai bên đều có trăm ức tràng hoa cùng vô lượng nhạc khí để trang
nghiêm. Tám thứ gió nhẹ mát từ những đài quang minh thổi ra, cổ động các nhạc
khí, diễn thành tiếng: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã.
Khi môn tưởng này đã thành, phải quán mỗi mỗi chi tiết cho cực
rõ ràng, nhắm mắt, mở đều có thể thấy, không để tan mất; duy trừ giờ ăn ngủ,
ngoài tất cả thời đều ghi nhớ việc ấy. Tưởng được như thế gọi là thấy cõi Cực
Lạc về phần thô. Nếu được tam muội, hành giả sẽ thấy rõ ràng cảnh tướng của đất
nước kia không thể kể xiết.
Đây là môn địa tưởng, thuộc về phép quán thứ ba.
Đức Phật bảo ngài A Nan:
- Ông nên ghi nhớ dạy của ta, để vì tất cả chúng sanh muốn thoát
khổ đời sau truyền thuyết môn địa quán này. Nếu thành tựu phép tưởng đây sẽ trừ
được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi xả báo thân, kẻ ấy quyết định sanh
về tịnh quốc, nơi lòng không còn nghi ngại.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
4.- QUÁN TƯỞNG CÂY BÁU
(BẢO THỌ QUÁN)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:
"Môn địa tưởng đã thành, kế tiếp quán cây báu. Muốn tu phép
quán này, phải tưởng rành rẽ bảy lớp hàng cây, mỗi cây cao tám ngàn do tuần,
đầy đủ hoa lá thất bảo. Mỗi mỗi hoa lá hiển phát những quang sắc báu lạ. Trong
sắc lưu ly chiếu ánh sáng vàng, trong sắc pha lê chiếu ánh sáng đỏ, trong sắc
mã não chiếu ánh sáng xa cừ, trong sắc xa cừ chiếu ánh sáng lục chân châu. Đại
khái các cây, hoa, lá đều bằng san hô, hổ phách, hoặc tất cả thứ dị bảo, trang
nghiêm rực rỡ.
Trên mỗi mỗi cây có bảy lớp lưới diệu chân châu che phủ; giữa
mỗi tầng lưới có năm trăm ức cung điện diệu hoa, nghiêm đẹp như cung Phạm
vương. Trong đó có các thiên đồng, mỗi vị trang nghiêm bằng các chuỗi ngọc gồm
năm trăm ức hạt Thích Ca Tỳ Lăng Già Ma Ni. Ánh sáng của những hạt ngọc này
chiếu xa đến một trăm do tuần, vô cùng rực rỡ như quang minh của trăm ức vầng
nhật nguyệt hòa hợp. Ngoài những hạt ngọc nghiêm sức còn xen lẫn các châu báu
khác, màu sắc đều là bậc thượng.
Những cây báu ấy hàng hàng đối nhau, lá lá thuận nhau, giữa
khoảng các lá sanh hoa đẹp mầu, trên hoa tự nhiên có trái thất bảo. Mỗi mỗi lá
cây rộng hai mươi lăm do tuần, có ngàn màu sắc, và trăm thứ đường gân hình như
chuỗi anh lạc của chư Thiên. Các hoa chói lộ sắc vàng Diêm Phù Ðàn, rực rỡ như
những vòng lửa, uyển chuyển giữa lá. Từ hoa lạ nổi sanh trái quí hình như bình
báu của trời của trời Đế Thích. Và từ trái mầu chiếu ánh sáng rực rỡ hóa thành
tràng phan cùng vô lượng bảo cái. Trong bảo cái ảnh hiện tất cả Phật sự của ba
ngàn thế giới và y, chánh mười phương cõi Phật.
Khi thấy bảo thọ rồi, nên theo thứ lớp quán thân cây, cành, lá,
hoa, quả, mỗi mỗi đều cho rõ ràng.
Đây là môn thọ tưởng, thuộc về phép quán thứ tư.
5.- QUÁN AO
NƯỚC BÁT CÔNG ÐỨC
(BẢO TRÌ QUÁN)
Kế lại quán tưởng nước các bảo trì. Ở cõi Cực Lạc có tám ao nước
bát công đức, mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu công đức, mỗi ao do
bảy báu hợp thành. Những thứ báu này tánh chất nhu nhuyễn, từ Như Ý Châu Vương
sanh ra. Nước ao phân thành mười bốn chi nhánh, mỗi dòng chiếu lộ sắc mầu bảy
báu. Thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim cương tạp sắc. Mỗi ao nước có
sáu mươi ức hoa sen thất bảo, và mỗi hoa sen tròn rộng mười hai do tuần.
Nước Ma Ni trong ao chảy lên xuống theo cọng sen và luồn vào các
cánh hoa, phát ra tiếng nhiệm mầu. Âm thanh này tuyên diễn những pháp Khổ,
Không, Vô Thường, Vô Ngã, các môn Ba La Mật, hoặc khen ngợi tướng tốt của chư
Phật. Từ Như Ý Châu Vương lại tuôn ra ánh sánh vàng mầu nhiệm, hóa thành các
sắc chim bá bảo. Tiếng chim thanh diệu hòa nhã cùng trỗi giọng khen ngợi niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Đây là môn tưởng ao nước bát công đức, thuộc về phép quán thứ
năm.
6.- QUÁN CHUNG VỀ ÐẤT CÂY, AO, LẦU BÁU
(TỔNG TƯỚNG QUÁN)
Nơi cõi báu Cực Lạc mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu. Trong
những lâu các ấy có vô lượng chư thiên thường trỗi thiên nhạc. Lại có vô lượng
nhạc khí lơ lửng giữa hư không như bảo tràng ở cõi trời, không ai trỗi tự nhiên
phát thành tiếng. Những tiếng này đều diễn nói môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tỳ Khưu Tăng.
Khi tưởng chung các tướng trên gồm bảo địa, bảo thọ, bảo trì,
bảo lâu được thành rồi, gọi là thấy thế giới Cực Lạc về phần thô.
Đây là môn tổng tưởng, thuộc về phép quán thứ sáu.
Nếu thấy tướng này sẽ trừ được nghiệp ác rất nặng trong vô lượng
ức kiếp. Khi mạng chung, kẻ ấy quyết định được sanh về cõi Cực Lạc.
Quán như thế gọi là chánh quán. Nếu tướng sai khác là tà quán.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Hãy để tâm lắng nghe và
khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các ngươi mà giảng thuyết phân biệt pháp trừ khổ não.
Các ngươi nên ghi nhớ rồi giải nói rành rẽ lại cho khắp trong đại chúng
nghe".
Khi đức Thế Tôn vừa nói lời ấy xong thì Phật Vô Lượng Thọ đã
hiện thân trụ lập giữa hư không, hai vị Ðại Sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đứng
đầu tả hữu. Ánh quang minh từ thân của Tây Phương Tam Thánh tỏa ra rực rỡ, nhìn
không thể xiết, dù cho trăm ngàn sắc vàng Diêm Phù Ðàn cũng không thể sánh ví
được.
Vi Đề Hy phu nhơn được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi đầu
đảnh lễ Phật và thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nay con nhờ từ lực được thấy
Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát. Chúng sinh đời sau phải làm thế nào để quán
tưởng Tây Phương Tam Thánh?"
7.- QUÁN TƯỞNG TÒA SEN
(HOA TÒA QUÁN)
Đức Phật bảo Vi Đề Hy: “Muốn quán đức Phật kia, trước tiên phải
khởi tưởng trên đất thất bảo có hoa sen. Mỗi cánh sen này ửng sắc bá bảo, có
tám muôn bốn ngàn đường gân dường như bức vẽ thiên nhiên. Mỗi đường gân có tám
muôn bốn ngàn tia sáng, chiếu suốt rõ ràng. Các chi tiết trên đây, phải quán
thấy cho rành rẽ.
Toàn hoa sen có đủ tám muôn bốn ngàn cánh, cánh nhỏ nhứt cũng
rộng hai trăm năm mươi do tuần. Trong mỗi cánh có trăm ức hạt Ma Ni Châu Vương
trang nghiêm sáng chói. Mỗi hạt châu ma ni phóng ra ngàn sắc quang minh như
lọng thất bảo che khắp trên mặt đất.
Đài sen được tạo thành bằng chất báu chính là Thích Ca Tỳ Lăng
Già. Ngoài ra, còn có tám vạn ngọc báu kim cương, chân thúc ca, phạm ma ni và
lưới diệu chân châu trang sức. Trên đài sen tự nhiên có bốn trụ bảo tràng; mỗi
trụ cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên bảo trụ có mành báu và năm
trăm ức vi diệu bảo châu che phủ, hình như cung trời Dạ Ma trang nghiêm rực rỡ.
Mỗi hạt bảo châu có tám muôn bốn ngàn ánh sáng, mỗi ánh sáng phát ra tám muôn
bốn ngàn kim sắc khác lạ soi khắp cõi báu, tùy mỗi nơi hiện mỗi mỗi tướng kim
sắc khác nhau. Các tướng ấy như đài kim cương, hoặc lưới chơn châu hay mây tạp
hoa... ở khắp mười phương, tùy ý biến hiện làm những Phật sự.
Đây là môn hoa tòa tưởng, thuộc về phép quán thứ bảy
Đức Thế Tôn bảo A Nan: “Hoa sen mầu nhiệm ấy do nguyện lực của
tỳ khưu Pháp Tạng thành tựu. Muốn quán đức Phật kia, trước phải tưởng hoa tòa
này. Khi tu môn tưởng đây, không được quán tạp, phải quán từ đài sen đến mỗi
mỗi cánh, hạt châu, ánh sáng, trụ bảo tràng, đều cho rõ ràng, như người soi
gương tự thấy mặt mình. Phép tưởng này nếu thành, sẽ diệt trừ tội chướng trong
năm muôn ức kiếp sanh tử, quyết định được sanh về thế giới Cực Lạc.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
8.- QUÁN TƯỢNG PHẬT VÀ BỒ TÁT
(TƯỢNG QUÁN)
Này A Nan, Vi Đề Hy! Khi thấy tướng hoa tòa rồi, kế tiếp nên
quán hình tượng Phật. Việc ấy như thế nào? Chư Phật Như Lai là thân pháp giới
vào trong tất cả tâm tưởng của chúng sanh. Cho nên khi tâm các ngươi tưởng
Phật, tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy hình; tâm ấy làm
Phật, tâm ấy là Phật. Biển Chánh Biến Tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sanh. Vì
thế các ngươi nên một lòng hệ niệm quán kỹ đức Đa Đà A Dà Độ, A La Ha Tam Miệu
Tam Phật Đà kia.
Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ trước phải tưởng hình tượng làm sao
cho khi nhắm mắt, mở mắt đều thấy một bảo tượng như sắc vàng Diêm Phù Ðàn, ngồi
trên tòa sen kia. Lúc thấy Phật tượng rồi tâm nhãn tự được mở mang rõ ràng sáng
suốt. Bấy giờ hành giả thấy cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm, như: bảo địa, bảo
trì, hàng bảo thọ, trên cây có mành báu chư thiên che phủ, các lưới báu giăng
khắp giữa hư không.
Khi thấy cảnh tướng rất rõ ràng như nhìn vào bàn tay rồi lại
tưởng hai hoa sen lớn, một ở bên tả, một ở bên hữu của Phật, cả hai đều giống như
tòa sen trước. Xong lại tưởng hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát ngồi tòa sen bên
trái, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên mặt, thân tướng đều rực rỡ như
sắc vàng Diêm Phù Đàn.
Phép quán này thành rồi, lại tưởng thân tướng của Phật và Bồ Tát
đều phóng ánh sáng vàng, chiếu các cây báu. Nơi mỗi gốc cây đều có tượng Phật
và hai vị Bồ Tát ngồi trên tòa sen, như thế cho khắp cả bảo độ.
Quán như thế xong, hành giả lại tưởng tiếng nước chảy, ánh sáng,
các cây báu, những loài chim: phù, nhạn, oan ương nói pháp mầu, cho đến khi
xuất định, nhập định hằng được nghe thấy. Pháp mầu nầy dù cho khi xuất định,
hành giả phải ghi nhớ đừng quên, và cần phải hợp với Tu-đa-la. Nếu pháp không
hợp với Khế Kinh, gọi là vọng tưởng; như hợp, gọi là tưởng thấy thế giới Cực
Lạc về phần thô.
Đây là môn tưởng thứ tám. Phép quán này tu thành, trừ diệt tội
trong vô lượng ức kiếp sanh tử, ngay hiện đời hành giả tất chứng được Niệm Phật
tam muội.
9.- QUÁN CHÂN THÂN PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ
(PHẬT THÂN QUÁN)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Môn tưởng này đã thành tựu, kế
lại quán thân tướng quang minh của Phật Vô Lượng Thọ.
Này A Nan! Ông nên biết thân Phật A Di Đà rực rỡ như sắc vàng
Diêm Phù Ðàn của trăm ngàn muôn ức cung trời Dạ ma. Phật thân cao sáu mươi sáu
vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần. Tướng bạch hào giữa đôi mày uyển chuyển
xoay về bên hữu như năm núi Tu di. Mắt Phật xanh trắng phân minh, rộng như nước
bốn biển lớn. Các chơn lông nơi thân tuôn ra ánh sáng như Diệu Cao sơn. Viên
quang của Phật to rộng như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới. Trong ấy có
trăm muôn ức na do tha hằng hà sa Hóa Phật, mỗi vị đều có vô số Hóa Bồ Tát làm
thị giả.
Vô Lượng Thọ Như Lai có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi tướng có
tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, và mỗi vẻ đẹp lại có tám muôn bốn ngàn tia
sáng. Những tia sáng ấy soi khắp các cõi ở mười phương, thâu nhiếp tất cả chúng
sanh niệm Phật.
Những tướng hảo, quang minh cùng hóa Phật đó vô cùng, nói không
thể xiết! Hành giả chỉ nên thành kính nhớ tưởng, khiến cho tâm nhãn được thấy.
Thấy được tướng này, tất thấy tất cả chư Phật mười phương. Vì
thấy chư Phật, nên gọi là Niệm Phật tam muội. Tu phép quán này gọi là quán thân
tất cả chư Phật. Và vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật. Tâm Phật là tâm
đại từ bi, dùng Vô Duyên Từ nhiếp tất cả chúng sanh niệm Phật. Quán như thế,
khi xả báo thân sẽ vãng sanh về trước chư Phật, được Vô Sanh Nhẫn. Cho nên
người trí phải hệ niệm quán kỹ Phật Vô Lượng Thọ.
Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ, phải từ một tướng hảo mà đi vào.
Trước tiên phải quán tướng lông trắng giữa đôi mày cho cực rõ ràng. Khi thấy
được tướng bạch hào, tự nhiên tám muôn bốn ngàn tướng tốt sẽ hiện. Và thấy được
Phật A Di Đà, tức thấy vô lượng chư Phật ở mười phương. Vì thấy vô lượng chư
Phật, nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.
Đây là môn tưởng tất cả tướng nơi sắc thân, thuộc về phép quán
thứ chín. Quán như thế gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
10.- QUÁN THÂN TƯỚNG ÐỨC QUÁN THẾ ÂM
(QUÁN THẾ ÂM QUÁN)
Này A Nan, Vi Đề Hy! Khi đã thấy Phật Vô Lượng Thọ rõ ràng rồi,
lại nên quán tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm. Vị Đại Sĩ này thân cao tám mươi muôn ức
na do tha do tuần, sắc tử kim, đảnh có nhục kế. Viên quang nơi đầu của Bồ Tát,
mỗi phía đều rộng trăm ngàn do tuần. Trong viên quang có năm trăm Hóa Phật như
Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Mỗi vị hóa Phật đều có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng
chư thiên làm thị giả. Trong thân quang của Bồ Tát hiện tất cả sắc tướng của
ngũ đạo chúng sanh.
Bồ Tát đầu đội thiên quan bằng chất báu Tỳ Lăng Già Ma Ni. Nơi
thiên quan có một vị Hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do tuần. Quán Thế Âm Đại
Sĩ mặt như sắc vàng Diêm Phù Ðàn, tướng bạch hào giữa đôi mi có đủ sắc thất
bảo, chiếu ra tám muôn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi ánh quang minh có vô lượng
vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật lại có vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả.
Các Hóa Bồ Tát này biến hiện tự tại đầy khắp mười phương thế giới.
Cánh tay của Bồ Tát như sắc hoa sen hồng, có tám mươi ức tia
sáng nhiệm mầu dường như chuỗi anh lạc, trong ấy hiện ra tất cả việc trang
nghiêm. Bàn tay Bồ Tát như năm trăm ức sắc tạp liên hoa, nơi đầu mỗi ngón tay
có tám muôn bốn ngàn lằn chỉ đẹp dường như nét vẽ của chiếc ấn. Mỗi lằn chỉ đều
có tám muôn bốn ngàn sắc, mỗi sắc lại có tám muôn bốn ngàn tia sáng nhu nhuyễn
soi khắp các nơi. Bồ Tát thường dùng tay báu này tiếp dẫn chúng sanh các cõi.
Nơi lòng bàn chân của Quán Thế Âm Đại sĩ có tướng thiên bức
luân. Khi Bồ Tát giở chân lên, từ nơi luân tướng ấy hóa hiện ra năm trăm ức đài
quang minh. Lúc để chân xuống tự nhiên có vô số hoa kim cương ma ni tuôn rải
tản mác khắp mọi nơi.
Ngoài ra, các tướng khác nơi thân bồ Tát đều đầy đủ và xinh đẹp
như đức Vô Lượng Thọ Thế Tôn; duy trừ nhục kế và tướng Vô Kiến Ðảnh là không
bằng Phật.
Đây là môn tưởng sắc thân chân thật của Bồ Tát Quán Thế Âm,
thuộc về phép quán thứ mười.
A Nan! Nếu chúng sanh nào muốn quán thân tướng của Bồ Tát Quán
Thế Âm, phải nên quán tưởng đúng như vậy. Kẻ tu thành môn quán nầy không còn
gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng và tội lỗi trong vô số kiếp sanh tử.
Chúng sanh chỉ nghe danh hiệu vị Bồ Tát ấy còn được vô lượng phước, huống nữa
là quán kỹ sắc thân? Kẻ nào muốn quán tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm, trước nên quán
nhục kế trên đảnh, tiếp quán đến thiên quan, bao nhiêu tướng khác cũng lần lượt
quán cho rõ ràng, như thấy các lằn chỉ trong bàn tay.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
11.- QUÁN THÂN TƯỚNG ÐỨC ÐẠI THẾ CHÍ
(ÐẠI THẾ CHÍ QUÁN)
Kế đến Bồ Tát Đại Thế Chí. Thân lượng của vị Ðại Sĩ nầy cũng
tương đương với Bồ Tát Quán Thế Âm. Viên quang nơi đảnh của Đại Thế Chí Bồ Tát
mỗi phía đều rộng một trăm hai mươi lăm do tuần; từ quang thể nầy ánh sáng lại
chiếu xa thêm hai trăm năm mươi do tuần nữa.
Quang minh toàn thân của Bồ Tát ánh ra mầu sắc tử kim, chiếu
khắp các cõi ở mười phương, những chúng sanh hữu duyên đều được trông thấy.
Chúng sanh nào chỉ thấy ánh sáng nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát nầy, tức
thấy quang minh trong sạch nhiệm mầu của mười phương vô lượng chư Phật. Vì thế,
vị Ðại Sĩ này được gọi là Vô Biên Quang. Và bởi Bồ Tát dùng ánh sáng trí huệ
soi khắp tất cả chúng sanh, khiến cho xa lìa tam đồ, được sức vô thượng, nên
lại có tên là Đại Thế Chí.
Thiên quan của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm bảo hoa, mỗi bảo
hoa có năm trăm bảo đài. Trong mỗi bảo đài hiện rõ tướng quốc độ tịnh diệu rộng
rãi của mười phương chư Phật. Nhục kế nơi đảnh của Bồ Tát hình như hoa bát đầu
ma. Trên nhục kế có một bảo bình đựng các thứ quang minh, hiện Phật sự khắp mọi
nơi. Ngoài ra, các tướng khác nơi thân, cũng đồng như Quán Thế Âm Bồ Tát.
Khi vị Ðại Sĩ này cất chân bước đi, mười phương thế giới thảy
đều chấn động. Ngay chỗ Bồ Tát bước tự nhiên hóa hiện năm trăm ức bảo hoa, mỗi
bảo hoa trang nghiêm cao sáng như diệu tướng ở cõi Cực Lạc. Lúc Bồ Tát ngồi
xuống, cả cõi thất bảo đồng thời rung chuyển. Giữa khoảng từ cõi Phật Kim Quang
ở phương dưới cho đến cõi Phật Quang Minh Vương ở phương trên, có vô lượng trần
số những phân thân của Phật Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, đều vân
tập đầy dẫy nơi hư không cõi Cực Lạc. Tất cả phân thân của Tam Thánh đều ngồi
trên hoa sen diễn nói pháp mầu, độ chúng sanh mê khổ.
Đây là môn tưởng thân tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát, thuộc về
phép quán thứ mười một. Tu môn quán này sẽ trừ được a tăng kỳ sanh tử trong vô
số kiếp, không còn ở bào thai, thường dạo chơi nơi các quốc độ tịnh diệu của
chư Phật. Môn tưởng này thành, gọi là đã quán thấy đầy đủ sắc thân của Bồ Tát
Quán Thế Âm và Đại Thế Chí.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác là tà quán.
12.- QUÁN THẤY MÌNH SANH VỀ CÕI PHẬT
(TỰ VÃNG SANH QUÁN)
Khi đã thấy việc ấy, hành giả nên từ nơi chân tâm, khởi tưởng
mình sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây, ngồi kiết dà trong hoa sen. Kế
tưởng hoa sen khép lại, rồi tưởng hoa sen nở ra. Khi hoa sen nở, tưởng có năm
trăm sắc quang minh soi chiếu đến thân mình. Lại tưởng mình mở mắt ra, thấy
Phật và Bồ Tát đầy giữa hư không, những âm thanh phát ra từ các Hóa Phật cho
đến chim, nước, rừng, cây, đều diễn nói pháp mầu, hợp với mười hai bộ kinh. Khi
xuất định, vẫn phải ghi nhớ đừng để quên mất.
Thấy được tướng này, gọi là thấy Phật Vô Lượng Thọ và thế giới
Cực Lạc. Hành giả sẽ được vô số hóa thân của Phật Vô Lượng Thọ cùng Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí thường quang lâm đến chỗ mình.
Đây là môn phổ quán tưởng, thuộc về phép quán thứ mười hai.
13.- QUÁN CHUNG VỀ PHẬT VÀ BỒTÁT
(TẠP TƯỞNG QUÁN)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:
- Nếu kẻ nào chí tâm muốn sanh về Tây Phương, trước nên quán
thân Phật A Di Đà cao một trượng sáu đứng trên bờ ao thất bảo.
Như trước đã nói, thân Phật Vô Lượng Thọ rộng lớn vô biên, tâm
lực của phàm phu khó nỗi quán cho khắp được. Tuy nhiên, nhờ đức Như Lai kia có
túc nguyện lực, nên nếu chí tâm quán tưởng tất sẽ được thành tựu. Chúng sanh
chỉ tưởng hình tượng Phật còn được vô lượng phước, huống chi quán đầy đủ thân
tướng của Như Lai? Phật A Di Đà có sức thần thông như ý, biến hiện tự tại khắp
các cõi ở mười phương, hoặc hiện thân lớn đầy cả hư không, hoặc hiện thân nhỏ
cao một trượng sáu, hay tám thước. Những thân hóa hiện đều là sắc chân kim. Còn
tướng viên quang, Hóa Phật cùng hoa sen báu, như trước đã diễn tả.
Về thân lượng của hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, ở khắp tất cả chỗ,
nên quán đồng như thân của các bậc thượng thiện nhơn. Hành giả chỉ cần phân
biệt sự sai khác của tướng đầu để biết đó là Bồ Tát Quán Thế Âm hay Đại Thế
Chí. Hai vị Ðại Sĩ này thường phụ trợ Phật A Di Đà, giáo hóa tất cả chúng sanh.
Đây là môn tạp tưởng quán, thuộc về phép quán thứ mười ba.
QUÁN CHÍN PHẨM VÃNG SANH CHUNG
14.- QUÁN SANH VỀ THƯỢNG PHẨM
THƯỢNG PHẨM THƯỢNG SANH QUÁN
THƯỢNG PHẨM TRUNG SANH QUÁN
THƯỢNG PHẨM HẠ SANH QUÁN
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Thượng phẩm thượng sanh là thế nào? Nếu chúng sanh muốn sanh về cõi kia, nên phát ba thứ tâm, là tâm chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện, tất sẽ được vãng sanh.
Lại có ba hạng hữu tình được sanh về Cực Lạc:
1. Một là hạng có lòng xót thương, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh.
2. Hai là hạng đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Ðại Thừa.
3. Ba là hạng tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện sanh về An Dưỡng.
Nếu đủ các công đức như thế, từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được vãng sanh.
Do kẻ ấy tinh tấn dõng mãnh nên lúc vãng sanh Phật A Di Đà cùng hai Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Thanh Văn Tỳ Kheo đại chúng, vô lượng chư thiên và cung điện thất bảo đều hiện đến. Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát bưng đài kim cang, cùng Đại Thế Chí Bồ Tát tới trước hành giả. Phật A Di Đà phóng đại quang minh chiếu đến thân người vãng sanh, rồi cùng chư Bồ Tát đồng đưa tay tiếp dẫn. Hai vị Đại Thánh Quan Thế Âm, Đại Thế Chí lại cùng vô số Bồ Tát đồng thanh khen ngợi, khuyến tấn. Hành giả mục kích cảnh ấy rồi, sanh tâm vui mừng khấp khởi, tự thấy mình ngồi trên đài kim cang, theo sau Phật và Thánh Chúng, trong khoảng khảy ngón tay, sanh về Cực Lạc.
Khi đã sanh về cõi kia, lại thấy kim thân của Phật đầy đủ các tướng, chư Bồ Tát sắc tướng cũng cụ túc trang nghiêm; các ánh sáng và rừng báu đều diễn thuyết pháp mầu. Hành giả nghe xong, liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong giây phút thừa sự chư Phật khắp mười phương, được thọ ký trước chư Phật, rồi trở về bản quốc, chứng vô lượng trăm ngàn môn Đà La Ni. Đây gọi là thượng phẩm thượng sanh.
THƯỢNG PHẨM TRUNG SANH QUÁN
Thượng phẩm trung sanh là thế nào?
Có chúng sanh tuy không thọ trì kinh Phương Đẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa thú,
đối với Ðệ Nhất Nghĩa tâm không kinh động, tin sâu lý nhân quả, không phỉ báng
pháp Ðại Thừa. Nếu hành giả đem công đức này niệm Phật hồi hướng cầu sanh Cực
Lạc, thì khi lâm chung Tây Phương Tam Thánh cùng vô lượng đại chúng quyến thuộc
bưng đài tử kim, hiện đến trước mặt khen rằng: "Pháp tử! Ngươi tu Ðại
Thừa, hiểu Ðệ Nhất Nghĩa, nên nay ta đến tiếp nghinh”. Liền đó đức Vô Lượng Thọ
Thế Tôn cùng với một ngàn Hóa Phật đồng thời đưa tay xuống tiếp dẫn. Bấy giờ hành
giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư Phật, rồi trong
khoảng một niệm liền sanh về nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc.
Đài tử kim ấy như hoa báu lớn, trải một đêm liền nở. Bấy giờ
hành giả thân sắc tử kim, dưới chơn lại có hoa sen thất bảo, được Phật và Bồ
Tát đồng thời phóng quang soi đến mình, mắt liền mở sáng. Do túc tập trước kia,
lúc đó tự nghe các âm thanh khắp nơi đều nói thuần là pháp Ðệ Nhất Nghĩa Ðế rất
thâm mầu. Nghe xong, liền bước xuống kim đài lễ Phật và chắp tay khen ngợi đức Thế
Tôn. Trải qua bảy ngày, liền được không thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề, có thể tự tại bay đi khắp mười phương thừa sự chư Phật, tu các
môn tam muội. Như thế qua một tiểu kiếp, chứng được Vô Sanh Nhẫn và mong chư
Phật thọ ký. Đây là cảnh thượng phẩm trung sanh.
THƯỢNG PHẨM HẠ SANH QUÁN
Thượng phẩm hạ sanh là thế nào?
Có chúng sanh tuy cũng tin nhân quả, không báng Ðại Thừa, nhưng chỉ phát tâm
cầu đạo vô thượng, rồi đem công đức ấy niệm Phật nguyện về Cực Lạc. Hành giả ấy
khi lâm chung được Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng chư Bồ Tát cầm
hoa sen vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến nghinh tiếp. Lúc đó năm trăm Hóa
Phật đồng thời đưa tay xuống và khen rằng: "Pháp tử! Ngươi nay thanh tịnh,
phát vô thượng đạo tâm, nên ta đến rước ngươi."
Khi hành giả mục kích cảnh ấy rồi, liền thấy mình ngồi nơi hoa
sen vàng, ngồi xong cánh hoa khép lại, theo sau đức Thế Tôn sanh về ao thất
bảo. Như thế trải qua một ngày đêm, hoa sen nở ra, bảy hôm sau mới được thấy
Phật. Nhưng tuy thấy Phật, đối với các tướng hảo tâm còn chưa rõ ràng, đợi qua
hai mươi mốt ngày, mới nhận được minh bạch. Bấy giờ người vãng sanh nghe các âm
thanh đều diễn pháp mầu, bay dạo mười phương cúng dường chư Phật, và được nghe
pháp thậm thâm trước các đức Thế Tôn. Trải qua ba tiểu kiếp như thế, được bách
pháp minh môn, trụ Sơ Hoan Hỷ Ðịa. Đây là cảnh thượng phẩm hạ sanh.
Trên
đây là môn tưởng thượng bối vãng sanh, thuộc về phép quán thứ mười bốn.
15.- QUÁN SANH VỀ TRUNG PHẨM
TRUNG PHẨM THƯỢNG SANH
QUÁN
TRUNG PHẨM TRUNG SANH
QUÁN
TRUNG PHẨM HẠ SANH QUÁN
TRUNG PHẨM THƯỢNG SANH QUÁN
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:
Trung phẩm thượng sanh là thế nào?
Nếu chúng sanh thọ trì ngũ giới, giữ bát quan trai, hoặc tu các giới khác,
không tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem căn lành ấy hồi hướng cầu
sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Chúng sanh đó khi lâm chung, được Phật A
Di Đà cùng các Tỳ-khưu quyến thuộc vi nhiễu, phóng kim quang soi đến mình, diễn
thuyết các pháp Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, cùng khen ngợi hạnh xuất gia
thoát khổ. Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng, tự thấy mình ngồi trên
đài sen, vội quì gối chắp tay cúi xuống lễ Phật. Lúc chưa ngước mặt lên, đã
sanh về thế giới Cực Lạc.
Sau khi vãng sanh, vừa lúc hoa sen nở ra, hành giả nghe các âm thanh
khen ngợi pháp Tứ Ðế, liền chứng quả A La Hán, đầy đủ tam minh, lục thông và
bát giải thoát. Đây là cảnh trung phẩm thượng sanh.
TRUNG PHẨM TRUNG SANH QUÁN
Trung phẩm trung sanh là thế nào?
Nếu chúng sanh giữ chín chắn giới Bát Quan Trai hoặc giới Sa Di hay giới Cụ Túc
trong một ngày đêm, các oai nghi đều toàn vẹn, đem công đức huân tu giới hương
đó hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Khi lâm chung, hành giả này thấy Phật A Di Đà
cùng quyến thuộc cầm hoa sen thất bảo phóng kim quang hiện đến trước mặt mình.
Bấy giờ đương nhơn nghe giữa hư không có tiếng khen rằng: "Lành thay thiện
nhơn! Ngươi đã biết thuận theo lời dạy của chư Phật ba đời mà tu tập, nên nay
ta đến rước ngươi”. Khi đó hành giả thấy mình ngồi nơi hoa sen, cánh hoa khép
lại, liền được sanh về bảo trì ở cõi Cực Lạc.
Qua bảy ngày hoa sen nở ra, hành giả chắp tay khen ngợi Phật,
được nghe pháp diệu, sanh tâm hoan hỷ, liền chứng quả Tu Đà Hoàn, và nửa kiếp
sau mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh trung phẩm trung sanh.
TRUNG PHẨM HẠ SANH QUÁN
Trung phẩm hạ sanh là thế nào?
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ theo thế
gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho nghe về sự vui nơi cõi Phật A
Di Đà và bốn mươi tám đại nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng. Kẻ ấy nghe xong hoan hỷ
niệm Phật mà qua đời, thần thức liền được sanh ngay về Tây Phương Cực Lạc thế
giới, lẹ như khoảng co duỗi cánh tay của người tráng sĩ.
Qua bảy ngày sau, hành giả được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại
Thế Chí, nghe pháp nhiệm mầu, sanh tâm vui đẹp, được quả Tu Đà Hoàn, sau một
tiểu kiếp mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh trung phẩm hạ sanh.
Môn tưởng này gọi là trung bối vãng sanh, thuộc về phép quán thứ
mười lăm.
16.- QUÁN SANH VỀ HẠ PHẨM
HẠ PHẨM THƯỢNG SANH
QUÁN
HẠ PHẨM TRUNG SANH QUÁN
HẠ PHẨM HẠ SANH QUÁN
HẠ PHẨM THƯỢNG SANH QUÁN
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:
Hạ phẩm thượng sanh là thế nào?
Hoặc có chúng sanh ngu tối, tuy không phỉ báng kinh điển Phương Đẳng, nhưng tạo
nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung gặp thiện tri thức nói
cho nghe danh đề của mười hai loại kinh Ðại Thừa, liền được trừ diệt nghiệp ác
rất nặng trong một ngàn kiếp. Bậc tri thức lại bảo phải chắp tay niệm "Nam
Mô A Di Đà Phật"; do đương nhơn thành tâm xưng danh hiệu Phật, nên tiêu
trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Ngay lúc ấy đức Vô Lượng Thọ Như Lai
cảm biết, liền sai Hóa Phật, Hóa Quán Âm và Hóa Thế Chí hiện đến trước hành giả
khen rằng: "Lành thay thiện nhơn! Người đã xưng danh hiệu Phật, nên các
tội tiêu diệt, ta đến đây để rước ngươi."
Bấy giờ hành giả thấy ánh sáng của Hóa Phật đầy khắp nhà mình,
trong lòng vui mừng, liền xả thọ, ngồi trên hoa sen báu theo Hóa Phật sanh về
ao thất bảo. Sau khi vãng sanh trải qua bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở. Vừa
lúc hoa nở, Đại Bi Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí phóng ánh sáng lớn, trụ
trước người ấy, giảng thuyết cho nghe nghĩa lý thâm diệu của mười hai loại kinh.
Đương nhơn nghe rồi tin hiểu, phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, trải qua mười hai tiểu
kiếp, thành tựu bách pháp minh môn, được vào Sơ Ðịa. Đây là cảnh hạ phẩm thượng
sanh.
HẠ PHẨM TRUNG SANH QUÁN
Hạ phẩm trung sanh là thế nào?
Hoặc có chúng sanh ngu tối hủy phạm ngũ giới, bát giới, giới Cụ Túc, trộm của
tăng kỳ và vật hiện tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, lòng không hổ thẹn, dùng
các nghiệp ác để tự trang nghiêm. Kẻ tạo tội chướng như thế, tất phải bị đọa
vào địa ngục, nên lúc lâm chung các tướng lửa của địa ngục đồng thời hiện ra.
Nhưng người này may mắn được gặp thiện tri thức giảng nói cho nghe về oai đức
thập lực, sức thần thông quang minh của Phật A Di Đà, cùng những pháp: giới,
định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Đương nhơn nghe xong sanh lòng tín
trọng nên trừ diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa dữ địa ngục hóa
thành gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có Hóa Phật và Hóa Bồ Tát hiện thân
tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sanh về hoa sen nơi ao thất bảo.
Sau khi vãng sanh, trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Vừa lúc hoa
nở, Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đến, dùng tiếng phạm âm an ủi và vì
giảng thuyết pháp thậm thâm của Ðại Thừa. Hành giả nghe xong, liền phát đạo tâm
vô thượng. Đây là cảnh hạ phẩm trung sanh.
HẠ PHẨM HẠ SANH QUÁN
Hạ phẩm hạ sanh là thế nào?
Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ
ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu
khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều
cách an ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn tuy
nghe lời dạy, song vì sự khổ bức ách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô Lượng
Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại bảo: "Nếu ông không thể tưởng đức
Phật kia thì nên chí thành xưng "Nam Mô A Di Đà Phật" tiếng tăm liên
tiếp không dứt cho đủ mười niệm". Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh
hiệu Phật nên mỗi mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi
mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt.
Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Như thế mãn mười hai đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị
Ðại Sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về Thật
Tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe rồi thân tâm
vui đẹp, liền phát lòng Vô Thượng Bồ Ðề. Đây là cảnh hạ phẩm hạ sanh.
Môn tưởng trên gọi là hạ bối vãng sanh, thuộc về pháp quán thứ
mười sáu.
Khi đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, Vi Đề Hy phu nhơn cùng năm trăm thị nữ liền thấy tướng rộng dài của thế giới Cực Lạc, sắc thân của Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát. Tất cả đều sanh lòng vui mừng, khen là việc chưa từng có. Phu nhơn hoát nhiên đại ngộ, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nguyện
sanh về Cực Lạc. Đức Thế Tôn thọ ký cho tất cả đều được vãng sanh và sau khi
sanh về Tịnh Ðộ đều chứng Chư Phật Hiện Tiền tam muội.
PHẦN LƯU THÔNG
Khi ấy Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật và thưa
rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Kinh này tên gọi là chi? Chúng con phải thọ
trì pháp yếu này như thế nào?
Đức Phật bảo:
- Kinh này tên Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế
Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát", cũng gọi là "Tịnh Trừ Nghiệp Chướng,
Sanh Chư Phật Tiền." Ông nên như thế mà thọ trì, chớ để quên mất. Người tu
môn tam muội này, hiện đời sẽ được thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Ðại Sĩ. Nếu
thiện nam thiện nữ nào chỉ nghe danh hiệu của đức Phật và hai vị Ðại Sĩ kia,
còn trừ được tội trong vô lượng kiếp sanh tử, huống chi là tưởng niệm! Như có
người nào niệm Phật, nên biết kẻ ấy chính là hoa phân-đà-lợi trong loài người.
Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí sẽ là thắng hữu của người ấy. Kẻ ấy sẽ ngồi
nơi đạo tràng, sanh vào nhà chư Phật. Này A Nan! Ông nên ghi nhớ lời này, thọ
trì lời này chính là thọ trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ.
Khi Phật nói lời ấy xong, hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan, Vi
Đề Hy phu nhơn cùng quyến thuộc thảy đều hoan hỷ.
Bấy giờ đức Thế Tôn bước trên hư không, trở lại núi Kỳ Xà Quật.
Khi về đến nơi, Tôn giả A Nan lại vì đại chúng trùng tuyên việc ấy. Vô lượng
chư thiên, long, dạ-xoa nghe lời của Phật nói, đều rất vui mừng, đảnh lễ đức
Thế Tôn rồi lui bước trở về.
Ðời Lưu-Tống,
Ngài-Cương Lương Gia-Xá
Liên-Du
Hòa Thượng Thích Thiền-Tâm dịch
CHUNG
VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A-Di-Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên nay chúng con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
NAM MÔ LIÊN TRÌ HẢI HỘI PHẬT BỒ TÁT (3 lần)
BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI
NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
(3 lần... hoặc 108 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(3 lần... hoặc 108 lần)
HỒI HƯỚNG
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
CHUNG
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
Có kẻ lại nghi rằng: Cảnh Cực Lạc mầu đẹp trang nghiêm vô lượng, chẳng phải dùng ít nhân duyên căn lành phước đức mà được sanh về. Nhìn gẫm lại mình, căn lành phước đức còn sơ bạc, nghiệp chướng lại nhiều, mong gì đời này được duyên tốt vãng sanh?
- Xin kính khuyên quý vị ngàn muôn lần chớ nên nghi như thế. Bởi khi các vị lần chuỗi niệm Phật được, là căn lành phước đức đã sâu dày rồi. Thử nghĩ lại xem, trên thế gian này biết bao nhiêu kẻ không nghe được danh hiệu Phật? Biết bao nhiêu người tuy nghe hồng danh đức A Di Đà, nhưng mãi đoạt lợi tranh danh, đeo đuổi theo các điều trần nhiễm, không chịu niệm Phật? Nay các vị đã được nghe Phật pháp và chí tâm niệm Phật, há không phải là có căn lành phước đức lớn đó ư? Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: "Nếu có chúng sanh nào nghe danh hiệu đức Phật kia, vui mừng khấp khởi, cho đến một niệm, nên biết kẻ ấy được lợi lớn, đã đầy đủ phước đức vô thượng." Lời này đủ chứng minh: biết niệm Phật tức là đã có nhiều phước đức căn lành rồi. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có dẫn sự tích những người phạm tội cực ác như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung và loài súc sanh như chim bát kha, anh võ, chí tâm niệm Phật đều được vãng sanh. Phước đức căn lành của quý vị đã vượt xa hơn những người ác và loại súc sanh kia. Vậy cần chi phải e ngại là ngay trong đời này không được sanh về Cực Lạc!
TRƯƠNG THIỆN HÒA
Trương Thiện Hòa, người đời Đường, chuyên nghề giết trâu bò bán thịt. Khi sắp chết, ông thấy loài thú ấy kéo đến đầy nhà, nói tiếng người rằng: “Mi đã giết chúng ta, hôm nay phải đền tội!” Thiện Hòa kinh hãi, vội gọi vợ mau tới chùa gần bên, thỉnh chư tăng hộ trợ.
Giây phút, một vị tăng đến, bảo rằng: “Kinh nói: Nếu có chúng sanh nào tạo nghiệp chẳng lành, sắp đọa ác đạo, nên chí tâm niệm A Di Đà Phật mười hơi. Như thế, trong mỗi câu hồng danh sẽ trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sống chết, liền được sanh về thế giới Cực Lạc!” Thiện Hòa nói: “Tướng hỏa xa ở địa ngục đã hiện tới rất gấp! Mau đem hương lại đây?” Rồi không kịp bưng lấy lư hương, sảng sốt tay trái bốc than lửa, tay mặt cầm hương đốt, xây mặt về Tây lớn tiếng niệm Phật. Trương vừa niệm hơn mười câu, bỗng reo lên nói: “Đức Phật A Di Đà hiện đến, đã trao tòa sen báu cho tôi!” Nói xong, liền qua đời.
HÙNG TUẤN
Sư Hùng Tuấn, họ Châu, người Thành Đô, giảng thuyết hay, nhưng không giới hạnh. Sau ông hoàn tục theo quân ngũ, rồi cạo tóc trở lại làm tăng. Xét bổn phận mình, sư cũng biết hổ thẹn ăn năn, nên thường niệm Phật.
Trong niên hiệu Đại Lịch đời Đường, Hùng Tuấn đau bịnh chết ngất, thần hồn xuống âm phủ. Diêm chúa quở trách, sai quỉ áp giải vào địa ngục. Sư kêu to lên rằng: “Trong Quán kinh nói: kẻ tạo tội ngũ nghịch, khi sắp chết niệm Phật mười niệm cũng được vãng sanh. Tôi tuy tạo tội, song không phạm ngũ nghịch, cứ theo công quả niệm Phật, đáng được sanh về Tịnh độ. Nếu chẳng thế, thì chư Phật trong ba đời đều thành vọng ngữ!” Nói xong chắp tay niệm Phật, bỗng thấy bảo đài ánh sáng hiện giữa hư không, Diêm chúa liền tha cho về để tiếp tục tu niệm.
Sau khi sống lại, Hùng Tuấn liền vào Tây Sơn chuyên tâm trì niệm. Được bốn năm, một hôm sư từ biệt đại chúng, ngồi chắp tay niệm Phật mà vãng sanh.
DUY CUNG
Đời Đường, sư Duy Cung người ờ Kinh Châu, giới hạnh kém, thường uống rượu đánh bạc. Lúc rảnh cũng tụng niệm, hồi hướng cầu về An Dưỡng. Trong chùa có sư Linh Quy thường a dua bắt trước theo. Hàng lân lý thấy thế, đặt lời hát rằng: “Duy Cung tạo nghiệp dữ. Linh Quy là bạn lữ. Địa ngục muôn từng vào. Đừng trách chi quỉ sứ!”
Duy Cung nghe được, nói: “Mỗ tuy tạo tội, song nương nhờ Phật lực mười niệm vãng sanh, há lại đọa ác đạo ư?” Một hôm sư đau bịnh, Linh Quy có việc ra khỏi chùa, thấy hai thiếu niên, một vị tay cầm nhạc khí. Hỏi từ đâu đến, đáp rằng: “Chúng ta từ Tây phương tới đón rước Cung thượng nhơn!” Vị kia lấy trong áo ra một hoa sen, cánh hoa khép mở buông tỏa ánh sáng lạ. Cả hai hướng về chùa rảo bước.
Linh Quy đứng bồi hồi suy nghĩ, rồi vội vã trở lại chùa. Vừa đến cửa đã nghe tin Duy Cung mãn phần. Nhân đó sư cảm ngộ sám hối, chí thiết tu hành, sau thành một bậc danh đức.
CHIM ANH VÕ
Đời Đường, nhà họ Bùi ở Hà Đông có nuôi một con Anh võ. Vì trong kinh A Di Đà có nói đến loại chim nầy, nên Bùi thị thường dạy nó niệm Phật và phép tu Lục trai. Đến ngày trai kỳ, nếu quá ngọ có ai đem thức ăn đến, suốt buổi chim không ngó tới. Có kẻ bảo nó khi niệm Phật, phải từ nơi “có niệm” đến chỗ “không niệm”, thì chim ngước đầu dương cánh dường như nhận thức.
Đến sau thấy nó thường im lặng, có kẻ nói đùa: Anh võ không còn niệm Phật nữa, chim liền phát thanh xướng: Nam mô A Di Đà Phật. Khi mùa hè gió mát, lúc đêm vắng trăng trong, Anh võ thường cất giọng cao thấp hòa nhã, thanh thao như cung đàn tiếng sáo, niệm Phật liên tục không dứt. Mọi người nghe thấy đều khen ngợi và phát tâm cảm ngộ.
Tháng bảy, niên hiệu Trinh Ngươn, thứ mười chín, chim có vẻ tiều tụy ủ rũ. Bùi thị đã nuôi dưỡng quen, biết nó sắp chết, liền cầm khánh ra và bảo rằng: “phải chăng con sắp muốn về Tây phương? Vậy con hãy giữ chánh niệm, nương theo tiếng khánh mà niệm Phật!” Nói xong, liền đánh khánh niệm Nam mô A Di Đà Phật, Anh võ cũng niệm theo. Được một lát, chim xếp cánh đứng yên, an lành mà vãng sanh. Sau khi thiêu hóa xác nó, Bùi thị bới tro kiểm lại, được hơn mười hột Xá lợi. Quan Tiết đại sứ Vi Cao có viết truyện ký về chim Anh võ này.
Đời nhà Minh, một thổ dân ở Lãnh Nam cũng có nuôi con chim Anh võ trắng, thường dạy nó tụng đọc. Mỗi buổi sáng sớm, chim đều tụng Bạch y thần chú, rồi kế tiếp niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm. Nó cũng đọc thuộc bài Quy Khứ Lai Từ, phú Xích Bích, và nhiều thi hay của Lý Bạch. Nếu thời khóa sớm mai chưa xong, dù có ai đem thi văn ra dạy bảo, chim cứ tiếp tục trì niệm không nghe theo. Sau Anh võ cũng niệm Quán Âm rồi thoát hóa.
CHIM CÙ CÁP
Trong niên hiệu Nguyên Hựu đời Tống, một người quận Trường Sa có nuôi con chim Cù cáp (một loại giống như chim Cu, Bồ câu), và đặt tên nó là Bát Bát Nhi. Một hôm ngẫu nhiên nghe vị tăng niệm Phật, chim liền ứng thanh niệm theo. Nhà chủ liền đem nó tặng cho tăng sĩ ấy. Về chùa, chim niệm Phật từ sáng đến tối không dứt. Lâu ngày, Cù cáp chết, vị tăng đem xác nó chôn sau chùa. Vài hôm, nơi chỗ chôn có một cành hoa sen mọc lên. Bới đất tìm, thấy cọng sen phát xuất từ nơi mỏ chim. Một văn nhơn làm bài thi khen ngợi việc ấy rằng:
Có một linh cầm Bát Bát Nhi
Biết theo tăng dạy, niệm A Di
Chết chôn nơi đất sen lành mọc
Nghe chuyện người đời cũng nghĩ suy…!
Một vị tăng nơi chùa chánh Đẳng tại Hoàng Nham ở núi Thiên Thai, cũng có nuôi một con Cù cáp. Mỗi ngày vào thời khóa tụng, chim đều tùy theo chư tăng niệm Phật. Một hôm nó đứng chết trong lồng, vị tăng đem xác ra đào đất mà chôn. Vài ngày sau, từ nơi mỏ chim mọc lên một cành hoa sen màu tím vượt cao khỏi mặt đất. Đại Trí Luật sư làm bài kệ khen ngợi chuyện đó, trong ấy có hai câu:
Lòng son đứng hóa âu thường sự
Sen tím mọc lên mới diệu kỳ!
Comments
Post a Comment