LAM
HT TOẠI CHÂU trụ trì tịnh viện Hương Nghiêm
(Đại Ninh-Đức Trọng)
Phim về Hòa thượng THÍCH THIỀN TÂM
(VÔ NHẤT ĐẠI SƯ )
SƯ VÔ ÍCH
THÍCH TOẠI CHÂU
LIÊN PHƯƠNG THI TẬP
HƯƠNG NGHIÊM TỊNH VIỆN
THAY LỜI TỰA
Lặn hụp đắm chìm trong biển ái sông mê, với bao cơn sóng gió hãi hùng của nghiệp thức vô tận.
Chơi vơi theo nước bạc tưởng rằng mãi mãi cam làm kẻ chết đắm giữa biển khơi.
Nhưng đây rồi ! May mắn thay vớ được chiếc thuyền Tịnh độ mà cha lành đang cứu vớt chúng sanh nào hữu duyên và
Sung sướng thay ! Nghẹn ngào nửa tủi, nủa mừng mới biết kiếp hư sanh còn chỗ tựa.
Do đó không ngại quê hèn kém cỏi, nghiệp lực sâu dày vụng về thô thiển vài hàng. Hoặc vịnh y báo Liên bang, hoặc ngâm đôi dòng cảm niệm của kiếp sống thừa giữa dòng thác lũ thời gian toàn huyễn mộng.
Trong khi đó ngoài trời tuyết sương bão tố còn tiếp diễn, tưởng chừng bất tận giữa đêm trường mạt pháp.
Vài hàng thô lậu với nhan đề "LIÊN PHƯƠNG THI TẬP". Thẹn lòng chưa hưởng trọn hương sen, nhưng hy vọng hương sen sẽ nhuận thấm tâm hồn mình bất tận.
Bao phen chìm nổi do duyên nghiệp
Trăng sáng canh tàn nhớ cố hương.
LIÊN PHƯƠNG
THÍCH TOẠI CHÂU
VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Rực rỡ Như Lai ánh sắc vàng
Diêm phù đàn chiếu bóng phù quang
Mắt xanh bốn biển phân minh nét
Lông trắng năm non uyển chuyển làn.
Chân lông hoá Phật vô biên số
Bồ Tát bao quang ức kể ngàn
Thâu nhiếp chúng sanh siêng niệm Phật
Diệt trừ nghiệp chướng sạch tiêu tan.
9. QUÁN CHÂN THÂN PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ
(Phật Thân Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: - Môn tưởng này đã thành tựu, kế lại quán thân tướng quang minh của Phật Vô Lượng Thọ.
Này A Nan! Ông nên biết thân Phật A Di Đà rực rỡ như sắc vàng Diêm Phù Ðàn của trăm ngàn muôn ức cung trời Dạ ma. Phật thân cao sáu mươi sáu vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần. Tướng bạch hào giữa đôi mày uyển chuyển xoay về bên hữu như năm núi Tu di. Mắt Phật xanh trắng phân minh, rộng như nước bốn biển lớn. Các chơn lông nơi thân tuôn ra ánh sáng như Diệu Cao sơn. Viên quang của Phật to rộng như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới. Trong ấy có trăm muôn ức na do tha hằng hà sa Hóa Phật, mỗi vị đều có vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả.
Vô Lượng Thọ Như Lai có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, và mỗi vẻ đẹp lại có tám muôn bốn ngàn tia sáng. Những tia sáng ấy soi khắp các cõi ở mười phương, thâu nhiếp tất cả chúng sanh niệm Phật.
"Rực rỡ như sắc vàng Diêm Phù Ðàn" là nói về thể sắc; "trăm ngàn muôn ức cung trời Dạ Ma", nói về thân lượng to rộng. “Na do tha” cũng gọi Na-du-đa, Trung Hoa dịch là Ức. Số ức có ba hạng: mười muôn, trăm muôn, ngàn muôn, nên các cổ đức định về số này không đồng. Thân Phật tuy cao sáu mươi sáu vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần, nhưng khi quán tùy theo căn cơ, tâm lượng, mỗi chúng sanh đều thấy khác nhau. Theo ngài Thiện Đạo, nếu kẻ nào tâm lực kém yếu, chỉ nên thành kính chú tưởng một trong ba tướng: nhục kế, bạch hào, hay thiên bức luân nơi chơn, sẽ lần lần được thấy các tướng hảo khác.
Hỏi: Nếu tu các hạnh lành hồi hướng về Tây Phương đều có thể vãng sanh. Tại sao ánh sáng của Phật soi khắp mười phương, lại chỉ thâu nhiếp chúng sanh niệm Phật?
Đáp: Trong ấy có ba nghĩa.
1. Thuyết minh về thân duyên: Chúng sanh khi khởi hạnh, thân lễ Phật, Phật liền thấy; miệng niệm Phật, Phật liền nghe; ý tưởng Phật, Phật liền biết. Chúng sanh nhớ tưởng Phật, Phật cũng ức niệm chúng sanh, kia và đây tương quan nhau, nên gọi là "thâu nhiếp".
2. Thuyết minh về cận duyên: Chúng sanh nguyện thấy Phật, Phật liền tùy niệm hiện thân, có cảm tất có ứng, gọi là "thâu nhiếp".
3. Thuyết minh về tăng thượng duyên: Chúng sanh niệm hồng danh được tiêu tội trong nhiều kiếp, khi lâm chung Phật cùng thánh chúng đến tiếp nghinh, các tà nghiệp không thể làm chướng ngại. Có tiếng tất có vang, đây gọi là "thâu nhiếp".
Tóm lại, vì lý cơ cảm tương quan, nên ánh sáng của Phật mới thâu nhiếp chúng sanh niệm Phật. Cho nên các hạnh khác dù gọi là lành, so với công đức niệm Phật vẫn kém phần trực thiệp.
Hỏi: Người không niệm Phật, quang minh của Phật có thâu nhiếp chăng?
Đáp: Nghĩa thâu nhiếp trên đây là luận về sự cơ cảm giữa chúng sanh và Phật mà thôi. Thật ra, Phật A Di Đà trải lòng từ bi bình đẳng, phóng quang soi khắp mười phương, những chúng sanh niệm Phật cùng không, đều ở trong vùng nhiếp thủ của Phật. Vậy sự đắc ích hay vãng sanh được cùng không là do chúng sanh chớ không thể nói quang minh của Phật thâu nhiếp có riêng tư. Như mặt trời buông ánh sáng soi khắp mọi nơi, nhưng kẻ mù lòa không thấy là do họ tối mắt chớ không phải tại vầng nhật. Vì thế Kinh Lăng Nghiêm nói: "Chư Phật mẫn niệm chúng sanh như mẹ trông nhớ con, nếu con cứ bỏ đi, thì mẹ dù nhớ cũng không biết làm sao được!"
Những tướng hảo, quang minh cùng hóa Phật đó vô cùng, nói không thể xiết! Hành giả chỉ nên thành kính nhớ tưởng, khiến cho tâm nhãn được thấy.
Thấy được tướng này, tất thấy tất cả chư Phật mười phương. Vì thấy chư Phật, nên gọi là Niệm Phật tam muội. Tu phép quán này gọi là quán thân tất cả chư Phật. Và vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật. Tâm Phật là tâm đại từ bi, dùng Vô Duyên Từ nhiếp tất cả chúng sanh niệm Phật. Quán như thế, khi xả báo thân sẽ vãng sanh về trước chư Phật, được Vô Sanh Nhẫn. Cho nên người trí phải hệ niệm quán kỹ Phật Vô Lượng Thọ.
Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ, phải từ một tướng hảo mà đi vào. Trước tiên phải quán tướng lông trắng giữa đôi mày cho cực rõ ràng. Khi thấy được tướng bạch hào, tự nhiên tám muôn bốn ngàn tướng tốt sẽ hiện. Và thấy được Phật A Di Đà, tức thấy vô lượng chư Phật ở mười phương. Vì thấy vô lượng chư Phật, nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.
Đây là môn tưởng tất cả tướng nơi sắc thân, thuộc về phép quán thứ chín. Quán như thế gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
"Tâm nhãn" ở đây là chỉ cho dùng ý mà duyên tưởng. Vì chư Phật đồng một Pháp Thân, các tướng không ngoài bản thể mà có, nên nói "thấy được tướng này, tức thấy tất cả chư Phật mười phương". Các pháp đều duy tâm, thân là tướng của tâm, nên nói: "Vì quán thân Phật, nên cũng thấy tâm Phật". Bởi Phật tướng đã không, tất cả đều duy tâm, chỉ là một thể đại từ bi, nên gọi: "tâm Phật là tâm đại từ bi". Vô Duyên Từ là đức Phật dùng tâm từ bi bình đẳng soi khắp pháp giới, không duyên trụ nơi các tướng có, không, cùng thời gian, không gian, mà phổ nhiếp tất cả chúng sanh. Trạng thái này, ví như mặt trăng trong tuy in bóng khắp muôn dòng nước lặng, song thỉ chung trăng vẫn vô tâm. Quán lý trên đây, duy bậc trí huệ mới có thể thâm nhập, nên nói: "Người trí phải hệ niệm quán kỹ Phật Vô Lượng Thọ".
Tướng bạch hào gồm nhiếp các tướng, nên khi quán tướng này thì các tướng khác đều hiện. Cứ theo chánh văn, thì đây là quán tướng bạch hào lớn như năm núi Tu Di, chớ không phải hào tướng của kim thân một trượng sáu, nên mới nói: "Tự nhiên tám muôn bốn ngàn tướng tốt sẽ hiện". "Thọ ký" là trao lời ghi nhận cho đương nhơn sẽ chứng các đạo quả, hoặc thành Phật.
QUÁN ÂM ĐẠI SĨ
Đại sĩ trang nghiêm sắc tử kim
Đầu đội thiên quang ẩn báu tìm
Viên quang hoá Phật cao muôn trượng
Lại hoá bồ Tát chiếu khắp miền.
Cánh tay muôn ức hiện trang nghiêm
Anh lạc chiếu soi vẻ dịu hiền
Tay báu ngàn tia dìu sanh chúng
Thiên bức luân kia ảnh hiện điềm
Bồ Tát dở chân luân tướng hiện
Quang minh lấn át ức chư Thiên
Lúc bước chân đi kim cương rải
Vô số ma ni khắp mặt tiền
Cứu khổ từ bi pháp vô duyên
Giọt nước nhành dương tắt lửa phiền
Hoá thân hình nữ ngàn muôn tướng
Bể khổ mênh mông cứu đắm thuyền.
10. QUÁN THÂN TƯỚNG ÐỨC QUÁN THẾ ÂM
(Quán Thế Âm Quán)
Này A Nan, Vi Đề Hy! Khi đã thấy Phật Vô Lượng Thọ rõ ràng rồi, lại nên quán tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm. Vị Đại Sĩ này thân cao tám mươi muôn ức na do tha do tuần, sắc tử kim, đảnh có nhục kế. Viên quang nơi đầu của Bồ Tát, mỗi phía đều rộng trăm ngàn do tuần. Trong viên quang có năm trăm Hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Mỗi vị hóa Phật đều có năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng chư thiên làm thị giả. Trong thân quang của Bồ Tát hiện tất cả sắc tướng của ngũ đạo chúng sanh.
Bồ Tát đầu đội thiên quan bằng chất báu Tỳ Lăng Già Ma Ni. Nơi thiên quan có một vị Hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do tuần. Quán Thế Âm Đại Sĩ mặt như sắc vàng Diêm Phù Ðàn, tướng bạch hào giữa đôi mi có đủ sắc thất bảo, chiếu ra tám muôn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi ánh quang minh có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật lại có vô số Hóa Bồ Tát làm thị giả. Các Hóa Bồ Tát này biến hiện tự tại đầy khắp mười phương thế giới.
Cánh tay của Bồ Tát như sắc hoa sen hồng, có tám mươi ức tia sáng nhiệm mầu dường như chuỗi anh lạc, trong ấy hiện ra tất cả việc trang nghiêm. Bàn tay Bồ Tát như năm trăm ức sắc tạp liên hoa, nơi đầu mỗi ngón tay có tám muôn bốn ngàn lằn chỉ đẹp dường như nét vẽ của chiếc ấn. Mỗi lằn chỉ đều có tám muôn bốn ngàn sắc, mỗi sắc lại có tám muôn bốn ngàn tia sáng nhu nhuyễn soi khắp các nơi. Bồ Tát thường dùng tay báu này tiếp dẫn chúng sanh các cõi.
Nơi lòng bàn chân của Quán Thế Âm Đại sĩ có tướng thiên bức luân. Khi Bồ Tát giở chân lên, từ nơi luân tướng ấy hóa hiện ra năm trăm ức đài quang minh. Lúc để chân xuống tự nhiên có vô số hoa kim cương ma ni tuôn rải tản mác khắp mọi nơi.
Ngoài ra, các tướng khác nơi thân bồ Tát đều đầy đủ và xinh đẹp như đức Vô Lượng Thọ Thế Tôn; duy trừ nhục kế và tướng Vô Kiến Ðảnh là không bằng Phật.
Đây là môn tưởng sắc thân chân thật của Bồ Tát Quán Thế Âm, thuộc về phép quán thứ mười.
Đoạn chánh văn trên đây đã diễn tả chơn thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Câu "năm trăm Hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Như Lai" là chỉ cho chư Hóa Phật đều cao một trượng sáu và có đủ ba mươi hai tướng như thân tướng của đức Thích Ca Mâu Ni. Những tướng lạ nơi tay của Bồ Tát, tiêu biểu cho năng dụng từ bi, sự hóa hiện nơi chân hiển thị về quả pháp công đức. "Thiên bức luân" là hình tướng bánh xe có ngàn cây căm. Câu "duy trừ nhục kế và tướng Vô Kiến Ðảnh là không bằng Phật" hiển minh phần quả nguyện của Bồ Tát chưa bằng Phật, nên hai tướng ấy phải kém hơn.
A Nan! Nếu chúng sanh nào muốn quán thân tướng của Bồ Tát Quán Thế Âm, phải nên quán tưởng đúng như vậy. Kẻ tu thành môn quán nầy không còn gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng và tội lỗi trong vô số kiếp sanh tử. Chúng sanh chỉ nghe danh hiệu vị Bồ Tát ấy còn được vô lượng phước, huống nữa là quán kỹ sắc thân? Kẻ nào muốn quán tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm, trước nên quán nhục kế trên đảnh, tiếp quán đến thiên quan, bao nhiêu tướng khác cũng lần lượt quán cho rõ ràng, như thấy các lằn chỉ trong bàn tay.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà quán.
Đoạn văn trên, đức Phật đã nhấn rõ lại nghi thức tu quán. Quán Thế Âm Bồ Tát có bản nguyện tìm tiếng cứu khổ, chúng sanh nào chỉ thường xưng niệm danh hiệu cũng được trừ tội, sanh phước, khỏi các tai nạn, huống chi là quán đến sắc thân? Cho nên kẻ nào tu thành môn quán này, không những hiện đời được lợi ích, mà khi lâm chung cũng chắc chắn sẽ được sanh về Tây phương vậy.
THẾ CHÍ ĐẠI SĨ
Quang minh Thế Chí thật vô biên
Ánh sáng huệ soi dứt khổ triền
Nhục kế bảo bình an Phật sự
Bảo đài hoa hiện tịnh quốc liên.
Bồ Tát bước đi mười phương động
Trăm ức hoa thơm rưới khắp liền
Khi ngồi đại giới đều rung chuyển
Trăm ức bảo đài chiếu cảnh thiên.
Phù trợ Di Đà chung tiếp dẫn
Đưa tay báu đẹp thoả ước nguyền
Cúi đầu đảnh lễ chư Đại sĩ
Xoa dịu lòng trần kẻ có duyên.
11. QUÁN THÂN TƯỚNG ÐỨC ÐẠI THẾ CHÍ
(Ðại Thế Chí Quán)
Kế đến Bồ Tát Đại Thế Chí. Thân lượng của vị Ðại Sĩ nầy cũng tương đương với Bồ Tát Quán Thế Âm. Viên quang nơi đảnh của Đại Thế Chí Bồ Tát mỗi phía đều rộng một trăm hai mươi lăm do tuần; từ quang thể nầy ánh sáng lại chiếu xa thêm hai trăm năm mươi do tuần nữa.
Quang minh toàn thân của Bồ Tát ánh ra mầu sắc tử kim, chiếu khắp các cõi ở mười phương, những chúng sanh hữu duyên đều được trông thấy. Chúng sanh nào chỉ thấy ánh sáng nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát nầy, tức thấy quang minh trong sạch nhiệm mầu của mười phương vô lượng chư Phật. Vì thế, vị Ðại Sĩ này được gọi là Vô Biên Quang. Và bởi Bồ Tát dùng ánh sáng trí huệ soi khắp tất cả chúng sanh, khiến cho xa lìa tam đồ, được sức vô thượng, nên lại có tên là Đại Thế Chí.
Thiên quan của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm bảo hoa, mỗi bảo hoa có năm trăm bảo đài. Trong mỗi bảo đài hiện rõ tướng quốc độ tịnh diệu rộng rãi của mười phương chư Phật. Nhục kế nơi đảnh của Bồ Tát hình như hoa bát đầu ma. Trên nhục kế có một bảo bình đựng các thứ quang minh, hiện Phật sự khắp mọi nơi. Ngoài ra, các tướng khác nơi thân, cũng đồng như Quán Thế Âm Bồ Tát.
Khi vị Ðại Sĩ này cất chân bước đi, mười phương thế giới thảy đều chấn động. Ngay chỗ Bồ Tát bước tự nhiên hóa hiện năm trăm ức bảo hoa, mỗi bảo hoa trang nghiêm cao sáng như diệu tướng ở cõi Cực Lạc. Lúc Bồ Tát ngồi xuống, cả cõi thất bảo đồng thời rung chuyển. Giữa khoảng từ cõi Phật Kim Quang ở phương dưới cho đến cõi Phật Quang Minh Vương ở phương trên, có vô lượng trần số những phân thân của Phật Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, đều vân tập đầy dẫy nơi hư không cõi Cực Lạc. Tất cả phân thân của Tam Thánh đều ngồi trên hoa sen diễn nói pháp mầu, độ chúng sanh mê khổ.
Đây là môn tưởng thân tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát, thuộc về phép quán thứ mười một. Tu môn quán này sẽ trừ được a tăng kỳ sanh tử trong vô số kiếp, không còn ở bào thai, thường dạo chơi nơi các quốc độ tịnh diệu của chư Phật. Môn tưởng này thành, gọi là đã quán thấy đầy đủ sắc thân của Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác là tà quán.
Quang minh của Đại Thế Chí Bồ Tát thuộc ánh sáng trí huệ vô lậu, vì thể vô lậu vẫn đồng nhau, nên nói "chỉ thấy ánh sáng nơi một lỗ chân lông của vị Bồ Tát này, tức thấy quang minh trong sạch nhiệm mầu của mười phương vô lượng chư Phật". "Sức vô thượng" tức là thập lực của Phật. "Bát đầu ma" chính là hoa sen đỏ. Khi Đại Thế Chí Bồ Tát bước đi, tự nhiên hóa hiện ra nhiều bảo hoa, vì thứ hoa báu ấy có nhiều kỳ trân nghiêm sức rực rỡ, nên mới ví như tướng trang nghiêm ở cõi Cực Lạc.
Hỏi: - Kinh Di Đà nói: "Chúng sanh ở cõi kia không có các sự khổ, chỉ hưởng những điều vui". Như thế, tại sao trong chánh văn đây lại nói các phân thân tham thánh thuyết pháp độ chúng sanh mê khổ?
Đáp: - Hai chữ “mê khổ” trong đây, ý nói: cảnh giới của bậc địa tiền không bằng bậc địa thượng, trí chứng bậc Sơ Ðịa không bằng bậc Nhị Ðịa, chẳng phải chỉ cho sự khổ vui như tam giới ở cõi Ta Bà. Tam Thánh thuyết pháp để đưa chư thượng thiện nhơn từ quả vị thấp lên quả vị cao, khiến cho vô minh phần diệt, chơn trí tăng sanh, nên mới gọi là "độ mê khổ." Bởi thánh chúng ở Cực Lạc đều lấy vô lậu làm thể, đại bi làm dụng, tâm an trụ nơi lý chân thường, lìa sự sanh diệt của phân đoạn, có tướng trạng gì gọi là khổ ư?
“A tăng kỳ”, Trung Hoa dịch là Vô-số, hoặc Vô-ương-số. “Không còn ở bào thai” là không còn bị đọa vào bào thai, thường được hóa sanh về các Tịnh Ðộ của mười phương chư Phật.
CHƯ THƯỢNG THIỆN NHƠN
Thánh chúng hà sa số rất đông
Thuần do tịnh đức sạch mê lòng
Thọ số vô cùng không tính kể
Quang minh vô lượng suốt hằng thông.
Sáng sớm đem hoa cúng mười phương
Trở về nghe pháp buổi mai thường
Lục thông tự chứng không cần luyện
Bồ Tát Thanh Văn chẳng tính đương
Không già bệnh khổ ghét chẳng thương
An lạc thân tâm thật khó lường
Chứng quả vô sanh ngôi bất thối
Phân thân hoá độ khắp cõi đường.
(Tự Vãng Sanh Quán)
Khi đã thấy việc ấy, hành giả nên từ nơi chân tâm, khởi tưởng mình sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây, ngồi kiết dà trong hoa sen. Kế tưởng hoa sen khép lại, rồi tưởng hoa sen nở ra. Khi hoa sen nở, tưởng có năm trăm sắc quang minh soi chiếu đến thân mình. Lại tưởng mình mở mắt ra, thấy Phật và Bồ Tát đầy giữa hư không, những âm thanh phát ra từ các Hóa Phật cho đến chim, nước, rừng, cây, đều diễn nói pháp mầu, hợp với mười hai bộ kinh. Khi xuất định, vẫn phải ghi nhớ đừng để quên mất.
Thấy được tướng này, gọi là thấy Phật Vô Lượng Thọ và thế giới Cực Lạc. Hành giả sẽ được vô số hóa thân của Phật Vô Lượng Thọ cùng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thường quang lâm đến chỗ mình.
Đây là môn phổ quán tưởng, thuộc về phép quán thứ mười hai.
Trong môn quán này, nếu tuần tự phân ra, có mười chi tiết:
1. Trụ tâm nơi chân tánh của mình.
2. Khởi tưởng sanh về Tây.
3. Tưởng ngồi kiết dà trong hoa sen.
4. Hoa sen khép.
5. Hoa sen nở.
6. Bảo quang soi đến thân.
7. Đã được quang minh chiếu đến, tưởng mình mở mắt.
8. Khi mở mắt ra thấy Phật, Bồ Tát cùng cảnh giới Cực Lạc.
9. Nghe pháp mầu hợp với khế kinh.
10. Lúc xuất định không quên mất.
Nếu hành giả quán thành, tất có sự cảm ứng thường được Phật và Bồ Tát đến an ủi, thuyết pháp, ấn hứa cho vãng sanh.
13. QUÁN TUỞNG CHUNG 3 VỊ ĐẠI THÁNH
(Tạp Tưởng Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:
- Nếu kẻ nào chí tâm muốn sanh về Tây Phương, trước nên quán thân Phật A Di Đà cao một trượng sáu đứng trên bờ ao thất bảo.
Như trước đã nói, thân Phật Vô Lượng Thọ rộng lớn vô biên, tâm lực của phàm phu khó nỗi quán cho khắp được. Tuy nhiên, nhờ đức Như Lai kia có túc nguyện lực, nên nếu chí tâm quán tưởng tất sẽ được thành tựu. Chúng sanh chỉ tưởng hình tượng Phật còn được vô lượng phước, huống chi quán đầy đủ thân tướng của Như Lai? Phật A Di Đà có sức thần thông như ý, biến hiện tự tại khắp các cõi ở mười phương, hoặc hiện thân lớn đầy cả hư không, hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu, hay tám thước. Những thân hóa hiện đều là sắc chân kim. Còn tướng viên quang, Hóa Phật cùng hoa sen báu, như trước đã diễn tả.
Về thân lượng của hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, ở khắp tất cả chỗ, nên quán đồng như thân của các bậc thượng thiện nhơn. Hành giả chỉ cần phân biệt sự sai khác của tướng đầu để biết đó là Bồ Tát Quán Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai vị Ðại Sĩ này thường phụ trợ Phật A Di Đà, giáo hóa tất cả chúng sanh.
Đây là môn tạp tưởng quán, thuộc về phép quán thứ mười ba.
Trước đức Phật đã diễn tả thân lượng của Tây Phương Tam Thánh rộng rãi vô biên, tướng nhiệm mầu không thể kể xiết! Nhưng vì thương xót chúng sanh ở cõi này tâm lượng phần nhiều kém nhỏ, khó nỗi quán chân thân của ba vị đại thánh, nên đức Như Lai lại tùy cơ mà nói ra quán cảnh này. Bởi Phật A Di Đà thần thông tự tại, tùy nơi mà biến hiện lớn nhỏ, nên quán thân cao một trượng sáu cũng gọi là thấy sắc thân của Phật. Và khi quán thân Phật nhỏ, tất phải tưởng thân của hai vị Bồ Tát thị giả cũng nhỏ đồng như thân ba mươi hai tướng của các bậc thượng thiện nhơn. "Phân biệt sự sai khác của tướng đầu" là nơi thiên quan của đức Quán Thế Âm có hình Hóa Phật đứng, thiên quan của đức Đại Thế Chí có bình báu chiếu ánh quang minh.
Nếu quán cảnh này thành, hành giả có thể thấy sắc thân của Tây Phương tam thánh lớn hơn tùy theo tâm lượng. Từ môn Nhật Quán đến môn Tạp Tưởng Quán này đã thuyết minh xong phần đức Thế Tôn đáp ứng lời thỉnh vấn "dạy về phép tư duy và chánh thọ" của bà Vi Đề Hy. Có lời kệ tổng tán rằng:
Trước dạy Nhật Quán trừ hôn ám
Tưởng nước thành băng để định tâm
Dưới đất bảo tràng, châu sáng rỡ
Trên không thiên nhạc, pháp thâm trầm.
Mây, lọng, thần quang muôn ức đạo
Cây ngọc, hoa quỳnh sanh trái báu
Ao vàng nước đức chảy trong hoa
Lầu xinh, gác lạ nghìn kỳ xảo
Hoa tòa mầu nhiệm đẹp vô cùng
Bảo trụ mành châu ánh vạn trùng
In bóng mười phương nhiều Phật sự
Trang nghiêm dường thể Dạ Ma cung.
Khôn lường tướng hảo ngợi Di Đà
Tay báu Quan Âm cứu ái hà
Thế Chí thần uy hay chấn động
Huệ quang soi khắp cõi hằng sa.
Cực Lạc sanh về tưởng thấy mình
Ngồi trong hoa báu định tâm tình
Cánh sen tưởng khép rồi tươi nở
Soi đến trăm màu ánh tịnh minh.
Vì đâu Điều Ngự động ai lân?
Cảnh tướng chân thân khó vạn phần!
Trượng sáu mở bày môn tiệm quán
Bên bờ ao báu tưởng kim thân!
QUÁN CHÍN PHẨM VÃNG SANH CHUNG
THƯỢNG PHẨM THƯỢNG SANH
Thượng phẩm thượng sanh cảm ứng sao
Đại phát ba tâm mới dự vào
Trì tụng Đại thừa ngộ nhất nghĩa
Khuyên chúng tu hành ấy phẩm cao.
Tu hành lục niệm phát nguyện minh
Giữ giới xót thương chúng hữu tình
Lâm chung liền thấy Di Đà Phật
Thế Chí Quán Âm đến tiếp nghinh.
Hà sa thánh chúng cả chư Thiên
Đài báu kim cang trước mặt tiền
Khoảng khảy móng tay về An Dưỡng
Chứng qua vô sanh bất thối liền.
14. QUÁN SANH VỀ THƯỢNG PHẨM
(Thượng Phẩm Sanh Quán)
QUÁN SANH VỀ THƯỢNG PHẨM THƯỢNG SANH
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:
Thượng phẩm thượng sanh là thế nào? Nếu chúng sanh muốn sanh về cõi kia, nên phát ba thứ tâm, là tâm chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện, tất sẽ được vãng sanh.
Lại có ba hạng hữu tình được sanh về Cực Lạc:
1. Một là hạng có lòng xót thương, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh.
2. Hai là hạng đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Ðại Thừa.
3. Ba là hạng tu hành lục niệm, hồi hướng phát nguyện sanh về An Dưỡng.
Nếu đủ các công đức như thế, từ một ngày cho đến bảy ngày, liền được vãng sanh.
Do kẻ ấy tinh tấn dõng mãnh nên lúc vãng sanh Phật A Di Đà cùng hai Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Thanh Văn Tỳ Kheo đại chúng, vô lượng chư thiên và cung điện thất bảo đều hiện đến. Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát bưng đài kim cang, cùng Đại Thế Chí Bồ Tát tới trước hành giả. Phật A Di Đà phóng đại quang minh chiếu đến thân người vãng sanh, rồi cùng chư Bồ Tát đồng đưa tay tiếp dẫn. Hai vị Đại Thánh Quan Thế Âm, Đại Thế Chí lại cùng vô số Bồ Tát đồng thanh khen ngợi, khuyến tấn. Hành giả mục kích cảnh ấy rồi, sanh tâm vui mừng khấp khởi, tự thấy mình ngồi trên đài kim cang, theo sau Phật và Thánh Chúng, trong khoảng khảy ngón tay, sanh về Cực Lạc.
Khi đã sanh về cõi kia, lại thấy kim thân của Phật đầy đủ các tướng, chư Bồ Tát sắc tướng cũng cụ túc trang nghiêm; các ánh sáng và rừng báu đều diễn thuyết pháp mầu. Hành giả nghe xong, liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong giây phút thừa sự chư Phật khắp mười phương, được thọ ký trước chư Phật, rồi trở về bản quốc, chứng vô lượng trăm ngàn môn Đà Ra Ni. Đây gọi là thượng phẩm thượng sanh.
Về tâm chí thành, "chí" là chơn, "thành" là thật. Đây ý nói người muốn vãng sanh, điểm cần yếu là ba nghiệp thân, miệng, ý, trong khi tu, đều phải từ nơi tâm chân thật mà phát ra, không nên bề ngoài hiện tướng tinh tấn hiền lành, bên trong lại ẩn niệm lơ là giả dối. Nếu đem tâm hư ngụy cẩu thả mà tu, thì dù ngày đêm hành trì bất tuyệt, trạng như lửa đốt đầu, chung qui cũng là hạnh tạp độc.
Lại sự chân thật có hai, là tự lợi chân thật và lợi tha chân thật. Tự lợi chân thật là tâm không còn mảy may tham luyến phước báo ngũ dục cõi người cõi trời, ở đời này hoặc đời sau, chỉ tha thiết nguyện sanh về Tây Phương. Trong khi thân lễ Phật, miệng tụng niệm, ý quán tưởng, cùng tu các hạnh lành, đều phải cung kính chí thành. Lợi tha chân thật là thành thật khen ngợi công đức y chánh ở Cực Lạc, khuyên người tinh tấn tu hành, thấy ai làm được việc lành nhỏ mọn cũng sanh tâm tùy hỉ. Tâm sâu thiết, tức lòng tin hiểu sâu. Tâm này cũng có hai:
1. Hành giả phải tin hiểu sâu chắc mình là kẻ phàm phu tội chướng, từ kiếp vô thỉ đến nay mãi trôi chìm trong vòng lục đạo, gây nên nghiệp ác không lường.
2. Phải tin sâu rằng Phật A Di Đà có nguyện lực rộng lớn, nếu chúng sanh nào thành tâm hệ niệm quy hướng, thì dù có bao nhiêu tội chướng, cũng quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng sanh.
Tâm hồi hướng phát nguyện là hành giả tu bao nhiêu công đức lành, dù là một chút mảy may nhỏ ít, cũng đều đem hồi hướng cầu sanh về Tây Phương, không một niệm cầu phước báu nhơn thiên chi khác. Phải biết sự an vui nghiêm tịnh ở Cực Lạc còn vượt hơn tam giới rất xa, và được sanh về Cực Lạc thì bao nhiêu hạnh nguyện độ mình, độ người đều sẽ thành tựu một cách chắc chắn.
"Lục niệm" là: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên. Đây là sáu niệm của Ðại Thừa, riêng về niệm Thiên tức là nhớ giữ mười nghiệp lành, chớ không phải niệm cầu sanh về cõi trời. Câu "nếu đủ công đức như thế từ một ngày cho đến bảy ngày", thuyết minh ảnh hưởng của Bồ Tát hạnh lớn lao vô cùng, chỉ một niệm còn có thể làm Phật chủng, huống chi từ một ngày đến bảy ngày ư? Đà-ra-ni, Trung Hoa dịch là Tổng trì, có nghĩa hay giữ pháp lành, ngăn pháp ác; đây là chỉ cho sự thông đạt vô lượng pháp môn.
THƯỢNG PHẨM TRUNG SANH
Thượng phẩm trung sanh liễu nghĩa kinh
Tin sâu nhân quả lý phân minh
Đệ nhất nghĩa để tâm không động
Không huỷ Đại thừa mới được sinh.
Lâm chung Tam Thánh hiện phân minh
Đại chúng vô biên đến tiếp nghinh
Một ngàn hoa Phật đưa tay dắt
Ngôi tử kim đài báu đẹp xinh.
Trải cách một đêm Liên hoa nở
Được nghe pháp diệu bởi Phật đà
Bảy ngày liền đắc không thối chuyển
Vô sanh một kiếp mới được mà.
QUÁN SANH VỀ THƯỢNG PHẨM TRUNG SANH
Thượng phẩm trung sanh là thế nào? Có chúng sanh tuy không thọ trì kinh Phương Đẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa thú, đối với Ðệ Nhất Nghĩa tâm không kinh động, tin sâu lý nhân quả, không phỉ báng pháp Ðại Thừa. Nếu hành giả đem công đức này niệm Phật hồi hướng cầu sanh Cực Lạc, thì khi lâm chung Tây Phương Tam Thánh cùng vô lượng đại chúng quyến thuộc bưng đài tử kim, hiện đến trước mặt khen rằng: "Pháp tử! Ngươi tu Ðại Thừa, hiểu Ðệ Nhất Nghĩa, nên nay ta đến tiếp nghinh”. Liền đó đức Vô Lượng Thọ Thế Tôn cùng với một ngàn Hóa Phật đồng thời đưa tay xuống tiếp dẫn. Bấy giờ hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư Phật, rồi trong khoảng một niệm liền sanh về nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc.
Đài tử kim ấy như hoa báu lớn, trải một đêm liền nở. Bấy giờ hành giả thân sắc tử kim, dưới chơn lại có hoa sen thất bảo, được Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang soi đến mình, mắt liền mở sáng. Do túc tập trước kia, lúc đó tự nghe các âm thanh khắp nơi đều nói thuần là pháp Ðệ Nhất Nghĩa Ðế rất thâm mầu. Nghe xong, liền bước xuống kim đài lễ Phật và chắp tay khen ngợi đức Thế Tôn. Trải qua bảy ngày, liền được không thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có thể tự tại bay đi khắp mười phương thừa sự chư Phật, tu các môn tam muội. Như thế qua một tiểu kiếp, chứng được Vô Sanh Nhẫn và mong chư Phật thọ ký. Đây là cảnh thượng phẩm trung sanh.
Hiểu Ðệ Nhất Nghĩa là rõ suốt các pháp thảy đều vắng lặng; đây là lý duyên khởi không tự tánh, vì nó tuyệt đối, vượt hơn các pháp, nên gọi "đệ nhất." "Tâm không kinh động" là bậc khéo hiểu nghĩa Không của Ðại Thừa, tuy nghe nói những đạo lý: tất cả pháp đều không, sanh tử Niết Bàn vẫn không, phàm thánh mê ngộ cũng không, cảnh lục đạo của thế gian và vị tam hiền thập thánh của xuất thế nguyên đồng thể tánh, lòng vẫn thản nhiên, không nghi trệ. "Tin sâu lý nhân quả" là rõ biết các pháp tuy không, song nhân quả lành dữ không mảy may sai lạc. Hiểu như thế mới gọi là không phỉ báng pháp Ðại Thừa.
Bậc có tín giải Ðại Thừa nếu chẳng nguyện về Tây Phương thì cũng còn ở trong vòng luân chuyển, khó bảo đảm không thối thất, nên đức Thế Tôn khuyên hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Bảy ngày và một tiểu kiếp trên đây, theo lời bình giải của các cổ đức, là ước về thời gian ở cõi Ta Bà chớ không phải Cực Lạc. Như thế thì bảy ngày chỉ là một khoảnh khắc ở Cực Lạc mà thôi.
THƯỢNG PHẨM HẠ SANH
Nhân quả tuy tin chửa được sâu
Không báng Đại thừa chỉ mong cầu
Phát tâm nguyện chứng vô thượng đạo
Thành tựu bi tâm thoả chí đầu.
Lâm chung Tam Thánh nối tiếp nhau
Hoá Phật năm trăm hiện đến đầu
Sen vàng khép lại về An Dưỡng
Bảy bữa hoa khai thấy Phật mau.
Hai mốt ngày sau thấy Phật thường
Nghe pháp nhiệm mầu cúng mười phương
Trải ba tiểu kiếp đắc sơ địa
Bách pháp minh môn ngộ rõ tường.
QUÁN SANH VỀ THƯỢNG PHẨM HẠ SANH
Thượng phẩm hạ sanh là thế nào? Có chúng sanh tuy cũng tin nhân quả, không báng Ðại Thừa, nhưng chỉ phát tâm cầu đạo vô thượng, rồi đem công đức ấy niệm Phật nguyện về Cực Lạc. Hành giả ấy khi lâm chung được Phật A Di Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng chư Bồ Tát cầm hoa sen vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến nghinh tiếp. Lúc đó năm trăm Hóa Phật đồng thời đưa tay xuống và khen rằng: "Pháp tử! Ngươi nay thanh tịnh, phát vô thượng đạo tâm, nên ta đến rước ngươi."
Khi hành giả mục kích cảnh ấy rồi, liền thấy mình ngồi nơi hoa sen vàng, ngồi xong cánh hoa khép lại, theo sau đức Thế Tôn sanh về ao thất bảo. Như thế trải qua một ngày đêm, hoa sen nở ra, bảy hôm sau mới được thấy Phật. Nhưng tuy thấy Phật, đối với các tướng hảo tâm còn chưa rõ ràng, đợi qua hai mươi mốt ngày, mới nhận được minh bạch. Bấy giờ người vãng sanh nghe các âm thanh đều diễn pháp mầu, bay dạo mười phương cúng dường chư Phật, và được nghe pháp thậm thâm trước các đức Thế Tôn. Trải qua ba tiểu kiếp như thế, được bách pháp minh môn, trụ Sơ Hoan Hỷ Ðịa. Đây là cảnh thượng phẩm hạ sanh.
Trên đây là môn tưởng thượng bối vãng sanh, thuộc về phép quán thứ mười bốn.
Câu "tuy cũng tin nhân quả", chỉ cho lòng tin còn chưa được sâu. Cũng bởi chưa tin sâu nhân quả khổ vui, nên lòng lành thường thối, niệm ác hằng sanh. Nếu kẻ đã hiểu sâu sự khổ luân hồi, thì đối với các tội nghiệp không còn tái phạm. Và đã tin sâu cảnh vui Tịnh Ðộ tất khi phát tâm tu không còn lui sụt biếng lười. Câu "không báng Ðại Thừa" là nói lòng tin tuy có gián đoạn, song đối với pháp Ðại Thừa không còn nghi báng; nếu quả có tâm nghi báng thì dù ngàn Phật hiện thân, cũng không thể cứu độ. Câu "ngươi nay thanh tịnh" chỉ cho tội chướng của hành giả đã được tiêu trừ.
Các điều lành tin lý nhân quả, không báng Ðại Thừa, tuy dường như vô công song nhờ hành giả phát tâm niệm chán khổ, ưa cảnh giới chư Phật, muốn mau thành tựu nguyện đại bi để cứu độ chúng hữu tình, nên mới được vãng sanh. Đây chính là tâm vô thượng Bồ Ðề vậy.
Ðược Bách pháp minh môn là thế nào?
Kinh Hoa Nghiêm nói: "Bậc Sơ Ðịa Bồ Tát trong khoảng sát na, chứng một trăm môn tam muội, thấy được một trăm đức Phật, sức thần thông có thể đi qua và làm chấn động một trăm Phật sát, ánh sáng soi khắp một trăm Phật độ, thành tựu chắc chắn được một trăm chúng sanh, biết quá khứ vị lai trăm ức kiếp, hay vào trăm pháp môn và hóa thân trong trăm cõi. Lại bậc Bồ Tát này mỗi mỗi hóa thân đều có một trăm Bồ Tát trang nghiêm làm quyến thuộc."
Sơ Hoan Hỷ Ðịa tức là Sơ Địa, vì khi Bồ Tát chứng được ngôi này tâm rất vui mừng, nên gọi là Hoan Hỷ. Có lời khen rằng:
Thượng bối nguyên là bậc lợi căn,
Cầu sanh cõi tịnh tuyệt tham, sân.
Công tu sai khác thành ba phẩm,
Ngôi vị đồng chung bậc thượng nhân.
Một đến bảy ngày chuyên tịnh niệm,
Tăng cùng tục khách thoát phù trần.
Mừng duyên phước gặp môn mầu nhiệm!
Sớm chứng chơn thường diệu pháp thân.
TRUNG PHẨM THƯỢNG SANH
Ngũ giới bát quan chẳng lỗi lầm
Không gây ngũ nghịch chẳng trược tâm
Đem căn lành ấy hồi An Dưỡng
Lâm chung từ phụ hiện lại lâm.
Thánh chúng đồng nghinh phóng Kim quang
Diễn bày diệu pháp thoát mê đàng
Quỳ gối chắp tay đang lễ Phật
Chưa ngước mặt lên đến Liên bang
Hoa sen vừa nở nghe Tứ đế
Cùng các âm thanh diễn pháp mầu
Chứng liền La Hán lục thông đủ
Bát giải tam minh thảy nhiếp thâu.
15. QUÁN SANH VỀ TRUNG PHẨM
(Trung Phẩm Sanh Quán)
QUÁN SANH VỀ TRUNG PHẨM THƯỢNG SANH
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: Trung phẩm thượng sanh là thế nào? Nếu chúng sanh thọ trì ngũ giới, giữ bát quan trai, hoặc tu các giới khác, không tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem căn lành ấy hồi hướng cầu sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Chúng sanh đó khi lâm chung, được Phật A Di Đà cùng các Tỳ-khưu quyến thuộc vi nhiễu, phóng kim quang soi đến mình, diễn thuyết các pháp Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, cùng khen ngợi hạnh xuất gia thoát khổ. Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng, tự thấy mình ngồi trên đài sen, vội quì gối chắp tay cúi xuống lễ Phật. Lúc chưa ngước mặt lên, đã sanh về thế giới Cực Lạc.
Sau khi vãng sanh, vừa lúc hoa sen nở ra, hành giả nghe các âm thanh khen ngợi pháp Tứ Ðế, liền chứng quả A La Hán, đầy đủ tam minh, lục thông và bát giải thoát. Đây là cảnh trung phẩm thượng sanh.
Trên đây là cảnh giới vãng sanh của hạng tiểu căn, nên hành giả chỉ thấy Phật và chúng Thanh Văn, không thấy chư Bồ Tát. A La Hán, Trung Hoa dịch là Vô Sanh, vì bậc này hoặc nghiệp đã tiêu trừ, không còn phải thọ thân sau nữa. Tam minh: Túc mạng minh, Lậu tận minh và Thiên nhãn minh; vì đối với quá khứ, hiện tại, vị lai đều thấu suốt, nên gọi là "minh." Lục thông: thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, như ý và lậu tận; vì với cả sáu môn này không còn bị ủng trệ, nên gọi là "thông." Bát giải thoát cũng gọi Bát bội xả, là:
1. Nội hữu sắc ngoại quán.
2. Nội vô sắc ngoại quán.
3. Duyên tịnh bội xả.
4. Không xứ bội xả.
5. Thức xứ bội xả.
6. Vô sở hữu xứ bội xả.
7. Phi phi tưởng xứ bội xả.
8. Diệt thọ tưởng bội xả.
TRUNG PHẨM TRUNG SANH
Giữ Bát quan trai hoặc Sa Di
Tỳ kheo giới hạnh đủ oai nghi
Một ngày giới thể toàn thanh tịnh
Hồi hướng vãng sanh đến Liên Trì.
Lâm chung từ phụ phóng kim quang
Quyến thuộc thiện nhơn khắp đạo tràng
Bấy giờ Phật thánh đồng khen ngợi
Ngồi bảo đài sen đến liên bang.
Bảy ngày sen nở nghe pháp diệu
Sanh lòng hoan hỷ chứng Đà Hoàn
Nửa kiếp về sau đắc La Hán
Giải thoát luân hồi vĩnh viễn an.
QUÁN SANH VỀ TRUNG PHẨM TRUNG SANH
Trung phẩm trung sanh là thế nào? Nếu chúng sanh giữ chín chắn giới Bát Quan Trai hoặc giới Sa Di hay giới Cụ Túc trong một ngày đêm, các oai nghi đều toàn vẹn, đem công đức huân tu giới hương đó hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Khi lâm chung, hành giả này thấy Phật A Di Đà cùng quyến thuộc cầm hoa sen thất bảo phóng kim quang hiện đến trước mặt mình. Bấy giờ đương nhơn nghe giữa hư không có tiếng khen rằng: "Lành thay thiện nhơn! Ngươi đã biết thuận theo lời dạy của chư Phật ba đời mà tu tập, nên nay ta đến rước ngươi”. Khi đó hành giả thấy mình ngồi nơi hoa sen, cánh hoa khép lại, liền được sanh về bảo trì ở cõi Cực Lạc.
Qua bảy ngày hoa sen nở ra, hành giả chắp tay khen ngợi Phật, được nghe pháp diệu, sanh tâm hoan hỷ, liền chứng quả Tu Đà Hoàn, và nửa kiếp sau mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh trung phẩm trung sanh.
Trên đây là cảnh giới vãng sanh của hạng phàm phu thuộc về Tiểu Thừa hạ thiện. Muốn được vãng sanh hành giả phải giữ oai nghi và một trong ba giới ít nhứt là khoảng một ngày đêm cho thanh tịnh, đừng để khuyết phạm. Trong một ngày đêm nếu phạm giới khinh, kể như đã phạm trọng tội, sự vãng sanh khó thành. "Giới hương" là người giữ giới thanh tịnh, có đức hạnh tiếng tốt lan xa, ví như mùi hương. "Được nghe pháp diệu" chính là nghe pháp Tứ Ðế và Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Tứ Ðế là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo; Khổ, Tập thuộc về nhân quả thế gian, Diệt, Ðạo thuộc về nhân quả xuất thế.
Tu Đà Hoàn, Trung Hoa dịch là Nhập Lưu hay Nghịch Lưu. Nhập Lưu là vào dòng thánh, Nghịch Lưu có nghĩa: ngược dòng sanh tử luân hồi.
TRUNG PHẨM HẠ SANH
Hiếu dưỡng mẹ cha hạnh từ nhân
Làm lành bố thí kẻ cô bần
Lâm chung may gặp thiện tri thức
Giảng sự an vui Cực Lạc an.
Nghe rồi hoan hỷ niệm Phật xong
Thần thức sanh Tây biệt cõi hồng
Khoảng tay co duỗi như lực sĩ
Liền tọa hoa sen sáng tịnh trong.
Bảy ngày thấy được Đức Quán Âm
Thế Chí thuyết kinh giản ngộ thầm
Đắc quả Đà Hoàn sau một kiếp
Mới thành La Hán lạc thanh tâm.
QUÁN SANH VỀ TRUNG PHẨM HẠ SANH
Trung phẩm hạ sanh là thế nào? Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ theo thế gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho nghe về sự vui nơi cõi Phật A Di Đà và bốn mươi tám đại nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng. Kẻ ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật mà qua đời, thần thức liền được sanh ngay về Tây Phương Cực Lạc thế giới, lẹ như khoảng co duỗi cánh tay của người tráng sĩ.
Qua bảy ngày sau, hành giả được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, nghe pháp nhiệm mầu, sanh tâm vui đẹp, được quả Tu Đà Hoàn, sau một tiểu kiếp mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh trung phẩm hạ sanh.
Môn tưởng này gọi là trung bối vãng sanh, thuộc về phép quán thứ mười lăm.
“Hạnh nhân từ theo thế gian” tức là hạnh bác ái, thường bố thí, an ủi, giúp đỡ mọi người; nhà Nho gọi là "suy ái cập vật." Trong chánh văn không nói hoa nở, là hàm ý: vì còn tùy theo niệm tinh tấn ít nhiều của người vãng sanh, mà hoa nở có sớm hay muộn. Ba cảnh vãng sanh trên đây đều thuộc về trung phẩm của hạng trung căn nên gọi là trung bối vãng sanh. Có lời khen rằng:
Trung bối căn lành thuộc bậc trung,
Giữ tròn nghi giới một ngày đêm.
Phước lành hiếu thuận tâm hằng nguyện
Nhân đẹp từ bi hạnh giúp thêm.
Ánh ngọc, bảo trì về đến cảnh,
Sen vàng, kim các bước lên thềm.
Bảy hôm hoa nở, lòng cùng nở,
Lòng nở bừng trong tiếng pháp âm.
HẠ PHẨM THƯỢNG SANH
Tạo nhiều nghiệp ác không hổ thẹn
Nghe được mười hai danh Đại Thừa
Diệt trừ nghiệp ác trong ngàn kiếp
Niệm Phật chí thành chẳng sót thưa.
Hoá Phật cùng với hoá Quán Âm
Thế Chí hoá thân chẳng thấy lầm
Tiêu tội năm mươi ức kiếp sạch
Thẳng đến Tây phương giải thoát thâm.
Bốn chín ngày sau nở Liên hoa
Thế Chí Quán Âm hiện trước toà
Được nghe kinh điển mười hai loại
Sơ địa mười hai kiếp đắc mà.
16. QUÁN SANH VỀ HẠ PHẨM
(Hạ Phẩm Sanh Quán)
QUÁN SANH VỀ HẠ PHẨM THƯỢNG SANH
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy:
- Hạ phẩm thượng sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh ngu tối, tuy không phỉ báng kinh điển Phương Đẳng, nhưng tạo nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung gặp thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh Ðại Thừa, liền được trừ diệt nghiệp ác rất nặng trong một ngàn kiếp. Bậc tri thức lại bảo phải chắp tay niệm "Nam Mô A Di Đà Phật"; do đương nhơn thành tâm xưng danh hiệu Phật, nên tiêu trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Ngay lúc ấy đức Vô Lượng Thọ Như Lai cảm biết, liền sai Hóa Phật, Hóa Quán Âm và Hóa Thế Chí hiện đến trước hành giả khen rằng: "Lành thay thiện nhơn! Người đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây để rước ngươi."
Bấy giờ hành giả thấy ánh sáng của Hóa Phật đầy khắp nhà mình, trong lòng vui mừng, liền xả thọ, ngồi trên hoa sen báu theo Hóa Phật sanh về ao thất bảo. Sau khi vãng sanh trải qua bốn mươi chín ngày hoa sen mới nở. Vừa lúc hoa nở, Đại Bi Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí phóng ánh sáng lớn, trụ trước người ấy, giảng thuyết cho nghe nghĩa lý thâm diệu của mười hai loại kinh. Đương nhơn nghe rồi tin hiểu, phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, trải qua mười hai tiểu kiếp, thành tựu bách pháp minh môn, được vào Sơ Ðịa. Đây là cảnh hạ phẩm thượng sanh.
"Tạo nhiều nghiệp ác", ý nói không phải thuộc về nghiệp cực ác. "Không phỉ báng kinh điển Phương Đẳng" là còn có lòng chánh tín. Mười hai loại kinh là: Khế Kinh, Trùng Tụng, Thọ Ký, Phúng Tụng, Cô Khởi, Nhân Duyên, Thí Dụ, Bản Sanh, Bản Sự, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu và Luận Nghị. Đây cũng gọi là “mười hai phần giáo”. Theo bản Cao Ly, có nói đủ về việc nghe danh hiệu Phật, Pháp, Tăng; bản này chỉ lược thuyết Phật và Pháp mà thôi. Ba phẩm trung ở đoạn trước vì muốn thuyết minh nhân quả của thượng thiện, hạ thiện thuộc Tiểu Thừa và thượng thiện thuộc thế gian, nên mới nói về Tiểu Quả; kỳ thật trung phẩm cũng lần lượt vào Ðại Thừa và chứng trước hạ phẩm.
Hỏi: Tại sao nghe danh đề của mười hai loại kinh Ðại Thừa chỉ trừ tội trong ngàn kiếp, mà chỉ xưng niệm câu hồng danh lại được tiêu tội đến năm mươi ức kiếp?
Đáp: Người tạo nghiệp bị chướng nặng, gia dĩ lúc lâm chung sự khổ bức bách, nghe tên nhiều loại kinh tâm dễ phù tán nên sức diệt tội phải kém. Còn danh hiệu Phật chỉ là một, đương nhơn dễ nhiếp tâm chuyên chú, gây thành tác dụng mạnh, nên diệt tội được nhiều.
HẠ PHẨM TRUNG SANH
Ngũ giới Tỳ kheo phạm quá nhiều
Trộm của Già Lam quả tự chiêu
Bất tịnh thuyết pháp lòng không thẹn
Lâm chung tuớng ngục hiện biết nhiều.
Gặp tri thức giảng Phật oai thần
Nghe rồi tin trọng cảm từ thân
Diệt tan tám mươi ức kiếp tội
Lửa dữ hóa thành hoa báu ân.
Trên hoa hóa Phật hiện tại tiền
Sáu kiếp về sau nở bảo liên
Quán Âm Thế Chí Diệu âm giảng
Vô thượng đạo mầu phát dõng kiên.
QUÁN SANH VỀ HẠ PHẨM TRUNG SANH
- Hạ phẩm trung sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh ngu tối hủy phạm ngũ giới, bát giới, giới Cụ Túc, trộm của tăng kỳ và vật hiện tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, lòng không hổ thẹn, dùng các nghiệp ác để tự trang nghiêm. Kẻ tạo tội chướng như thế, tất phải bị đọa vào địa ngục, nên lúc lâm chung các tướng lửa của địa ngục đồng thời hiện ra. Nhưng người này may mắn được gặp thiện tri thức giảng nói cho nghe về oai đức thập lực, sức thần thông quang minh của Phật A Di Đà, cùng những pháp: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Đương nhơn nghe xong sanh lòng tín trọng nên trừ diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa dữ địa ngục hóa thành gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có Hóa Phật và Hóa Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sanh về hoa sen nơi ao thất bảo.
Sau khi vãng sanh, trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Vừa lúc hoa nở, Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đến, dùng tiếng phạm âm an ủi và vì giảng thuyết pháp thậm thâm của Ðại Thừa. Hành giả nghe xong, liền phát đạo tâm vô thượng. Đây là cảnh hạ phẩm trung sanh.
Trên đây nói phạm ngũ giới cho đến Cụ Túc chỉ là lược thuyết, trong ấy đã bao trùm có giới Sa Di. “Tăng kỳ”, Trung Hoa dịch là Đại-chúng, tức của thường trụ, có hai:
1. Thường trụ thường trụ, như chùa chiền, ruộng đất, thuộc về bất động sản.
2. Thập phương thường trụ, như lúa gạo, thức ăn, có thể cúng dường chung cho chư tăng mười phương.
Vật hiện tiền tăng cũng có hai:
1. Hiện tiền hiện tiền, tức là vật riêng hay phần chia riêng của chư Tăng.
2. Thập phương hiện tiền, tức là của tác pháp phổ thí.
“Bất tịnh thuyết pháp” là thuyết pháp với dụng tâm không trong sạch, mục đích mưu cầu danh vọng, sự cúng dường. "Dùng các nghiệp ác để tự trang nghiêm" ý nói nghiệp ác dẫy đầy, người thấy đều khinh chán. Thập Lực là mười trí lực của Phật, gồm có: Thị xứ phi xứ lực, Nghiệp trí lực, Định lực, Căn lực, Dục lực, Tánh lực, Chí xứ đạo lực, Túc mạng lực, Thiên nhãn lực và Lậu tận lực. Năm phần: Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, ba pháp trước có thể suy danh để hiểu, còn phần thứ tư, tu nhân cảm quả gọi là Giải Thoát và sau khi đắc quả khởi ra trí dụng tự tại, gọi là Giải Thoát Tri Kiến.
Vì cảnh tùy tâm chuyển, người ác nghe công đức của Phật sanh niệm tín trọng, nên chuyển ác thành thiện; các tướng lửa như: vạc dầu, nước đồng sôi, thiết trụ, thiết hoàn, hỏa luân, hỏa xa đều biến thành gió mát, hoa trời, được Phật, Bồ Tát hóa thân đến tiếp dẫn. Đây là thuyết minh sức diệu dụng biến hiện của tự tâm.
HẠ PHẨM HẠ SANH
Ngũ nghịch thập ác chẳng tạo lành
Địa ngục ác đạo phải thường sanh
Lâm chung may gặp thiện tri thức
Khuyên niệm Di Đà đủ mười danh.
Chí thành niệm Phật tận thân tâm
Sám hối nghiệp xưa giảm tội dần
Tắt hơi được thấy sen vàng nở
An Dưỡng được về bởi Phật ân.
Mười hai đại kiếp nở sen hoa
Thế Chí Quán Âm hiện trước toà
Giảng về thật tướng ly diệt tội
Diệu giác Bồ Đề phát nguyện xa.
QUÁN SANH VỀ HẠ PHẨM HẠ SANH
- Hạ phẩm hạ sanh là thế nào? Hoặc có chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn tuy nghe lời dạy, song vì sự khổ bức ách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hữu lại bảo: "Nếu ông không thể tưởng đức Phật kia thì nên chí thành xưng "Nam Mô A Di Đà Phật" tiếng tăm liên tiếp không dứt cho đủ mười niệm". Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh hiệu Phật nên mỗi mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Như thế mãn mười hai đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở, hai vị Ðại Sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói rộng về Thật Tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe rồi thân tâm vui đẹp, liền phát lòng Vô Thượng Bồ Ðề. Đây là cảnh hạ phẩm hạ sanh.
Môn tưởng trên gọi là hạ bối vãng sanh, thuộc về pháp quán thứ mười sáu.
Tội ngũ nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá sự hòa hợp của chư Tăng, và làm cho thân Phật ra máu. Vì năm tội này trái ân phụ đức, nên gọi là "nghịch." “Thập ác” là ba nghiệp dữ của thân, bốn nghiệp dữ của miệng, và ba nghiệp dữ của ý; tất cả ác nghiệp đều nhiếp về mười điều này. "Mười niệm" ước về số ít là mười câu, nhiều là mười hơi.
Hỏi: Theo kinh Vô Lượng Thọ, đoạn bốn mươi tám điều đại nguyện, có câu "duy trừ những người tạo ngũ nghịch và báng chánh pháp, ngoài ra đều được vãng sanh." Nay trong chương hạ phẩm hạ sanh của Quán kinh đây lại nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch, không thâu kẻ báng chánh pháp là ý thế nào?
Đáp: Việc ấy nên hiểu theo nghĩa Ức Chỉ Môn, tức là lời nói ngăn đón trong Phật pháp. Bởi người đã tạo tội ngũ nghịch tất nghiệp chướng rất nặng nề, khó hồi tâm hướng về Chánh Pháp, nên đức Như Lai mới nói lời rào đón trước, để cho kẻ ấy được dễ dàng trong sự vãng sanh. Nếu người tạo ngũ nghịch, thập ác mà biết hồi tâm niệm Phật, tất đức Phật sẵn sàng tiếp dẫn. Chư Phật lòng từ vi vô lượng, đối với kẻ lỗi lầm biết quay đầu về hướng thiện, lẽ nào lại không tiếp độ? Cho nên Quán Kinh nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch là bởi ý đó.
Trong kinh đây không nói đến kẻ báng pháp là bởi nếu đã tạo tội nặng mà biết tin tưởng Chánh Pháp thì còn có thể hóa độ, bằng trái lại thì dù có khuyên bảo chỉ e luống vô công. Tuy nhiên, nếu có người trước kia không tin tưởng, thường phỉ báng Chánh Pháp sau bị tai nạn, hay thấy ác tướng, hoặc gặp duyên sự gì, biết thức tỉnh trở lại nẻo chánh chơn thì chư Phật với tâm bình đẳng từ bi vẫn sẵn sàng tiếp độ. Vì thế, kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Nếu trong hàng tứ chúng có kẻ báng kinh Ðại Thừa, tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng giới, mà biết chí tâm hệ niệm quán tưởng một tướng hảo của Phật trong một ngày đêm thì các tội chướng thảy đều tiêu diệt." Thế thì những kẻ báng Chánh Pháp nếu có thể hồi tâm, tất đều vãng sanh chớ chẳng phải là không được thâu nhiếp đâu!
Nhưng người báng Chánh Pháp dù được vãng sanh, phải ở trong hoa sen trải qua nhiều kiếp. Trong thời gian lâu xa ấy, đương nhơn tuy hưởng sự vui như Tam Thiền, song còn ba điều chướng là: không được thấy Phật và Thánh Chúng, không được nghe Chánh Pháp, không được thừa sự cúng dường các đức Thế Tôn. Tuy thế, cũng còn hơn là kẻ không hồi tâm để bị đọa vào địa ngục A Tỳ!
Về hạ phẩm vãng sanh đến đây đã xong.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
Khi đức Thế Tôn nói lời ấy rồi, Vi Đề Hy phu nhơn cùng năm trăm thị nữ liền thấy tướng rộng dài của thế giới Cực Lạc, sắc thân của Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát. Tất cả đều sanh lòng vui mừng, khen là việc chưa từng có. Phu nhơn hoát nhiên đại ngộ, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nguyện sanh về Cực Lạc. Đức Thế Tôn thọ ký cho tất cả đều được vãng sanh và sau khi sanh về Tịnh Ðộ đều chứng Chư Phật Hiện Tiền tam muội.
Vô lượng chư thiên phát tâm vô thượng Bồ Ðề.
Trước chỉ nói bà Vi Đề Hy thấy cõi Cực Lạc, nay lại thuyết minh năm trăm thị nữ đều thấy, đây là mật ý chỉ cho phu nhơn và năm trăm thị nữ đều có nhơn duyên với miền An Dưỡng.
Hỏi: Luận Vãng Sanh nói:
"Người nữ, kẻ căn thiếu;
Nhị thừa chủng không sanh".
Như thế tại sao trong kinh này Phật lại ấn hứa cho người nữ được vãng sanh?
Đáp: Đó là ý nói ở Cực Lạc không có người nữ cùng kẻ sáu căn không đủ, chứ chẳng phải nữ nhơn và kẻ thiếu căn niệm Phật không được vãng sanh đâu! Còn "Nhị Thừa chủng" là chỉ cho hàng định tánh Thanh Văn lấy quả Vô Dư Niết Bàn làm cứu cánh, không tin có cõi Cực Lạc. Nếu những vị này hướng về Ðại Thừa, phát tâm niệm Phật tất đều được vãng sanh.
NHỚ THẦY LIÊN HẠNH
Chín mươi tuổi chẵn mới về Tây
Nhớ đến ân sư lệ ứa đầy
Lô Sơn Sơ tổ còn lưu tiếng
Tịnh viện Tam Liên vắng bóng Thầy.
Chẳng từ gối hạt bền thuyết pháp
Cho đến răng long mới lặng thay
Thượng phẩm nguyện cầu Ngài chứng nhập
Cứu khổ sanh linh khỏi đoạ đầy.
Thành kính tưởng niệm Hoà Thượng thượng Bửu hạ Lai, Liên hạnh Hương Nghiêm Tịnh Viện viên tịch 24/10 Canh Ngọ, Cần Thơ Chùa Khánh Quang 28/10 Canh Ngọ (1990).
Liên quản Thích Toại Châu
Kính bái
Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Lai
(1901 - 1990)
Hòa thượng pháp danh Thích Bửu Lai, pháp hiệu Giác Hòa. Thế danh Lê Văn Tồn, sinh năm 1901 (Tân Sửu) tại Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài sinh trong một gia đình trung lưu, phúc hậu, thấm nhuần Nho giáo đồng thời hết lòng kính tin Tam Bảo. Cụ thân sinh là ông Lê Văn Hưởng và thân mẫu là bà Lê Thị Thiềm.
Gia đình có bốn chị em (3 nữ 1 nam), Ngài là người con thứ ba và cả thảy bốn người đều xuất gia tu học. Hai chị là Tỳ kheo Ni Diệu Chánh, Diệu Lý trụ trì chùa Long Đức - Sa Đéc (đã viên tịch). Người em gái còn lại là Tỳ kheo Ni Diệu Ngọc, trụ trì chùa Long An, Xóm Củi - Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Vừa lên 6 tuổi, Ngài được song thân cho vào trường tư thục học chữ Nho và quốc ngữ. Năm lên 7 tuổi được vào trường công học tiếp những chương trình phổ thông cần thiết thời bấy giờ. Bản tánh hiền hậu sống chan hòa và tư chất thông minh đã bộc lộ, nên Ngài được thầy giáo và bạn bè quý mến.
Năm 15 tuổi, Ngài thọ tam quy ngũ giới tại chùa Long Hòa với Hòa thượng Thích Thiện An, ở xã Ngãi Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh.
Năm 18 tuổi (1919), cha mẹ Ngài đều qua đời, để lại mấy chị em phải tự đùm bọc lấy nhau. Không lâu sau đó, nhận thấy các chị mình cơ cực vì sinh kế, nên Ngài đành bỏ dở việc học với nhiều nuối tiếc, hầu phụ giúp các chị trong sinh hoạt hằng ngày. Khi vừa mãn tang mẹ ba năm, nhớ lời trối trăn của mẹ là phải lấy vợ để nối dõi tông đường. Hơn nữa Ngài là con trai duy nhất, lại luôn hiếu thảo, Ngài quyết định lập gia đình đúng vào năm 20 tuổi.
Năm 1922, Ngài thi vào ngành Thư ký Bưu Điện Đông Dương và được cử làm việc tại Sài gòn. Sống giữa nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ đời thường, nhưng đây chính là nơi có đầy đủ kinh sách để Ngài tham cứu về Phật giáo. Năm 23 tuổi, nhờ được đọc 2 quyển “Tây Quy Trực Chỉ” của tác giả Trần Phong Sắc và quyển “Lão Nhơn Đắc Ngộ” của tác giả Mạch Quốc Thoại, Ngài phát tâm, dành ra nhiều thời gian để nghiên cứu và tu pháp môn Tịnh độ. Từ đó, Ngài thực hành ba thời khóa tu tập mỗi ngày: đầu hôm lạy sám hối tiêu nghiệp và 12 câu nguyện Di Đà, giữa đêm ngồi niệm Phật công cứ, sáng trì chú Lăng Nghiêm. Đó là duyên khởi đầy tích cực cho hành trình giải thoát của Ngài.
Năm 23 tuổi, Ngài được đổi về tỉnh nhà, làm Trưởng ty Bưu điện và Ngân khố. Được gần gũi gia đình nên việc tu trì tại gia và nghiên cứu Phật học càng có cơ duyên thuận lợi. Ngài chủ xướng thành lập Tỉnh Hội Phật Học Sa Đéc, rồi xây cất chùa Hội Quán. Ở cương vị Hội trưởng, Ngài đã làm được rất nhiều điều hữu ích cho đạo pháp tại bản tỉnh trong năm năm liền (1924-1929).
Sau 32 năm lăn lộn giữa trường đời, suy gẫm và rút ra được những giá trị đích thực của chân lý vĩnh hằng, Ngài quyết định xin về hưu sớm. Sau hai tháng sắp xếp việc gia đình, Ngài bắt đầu bước vào nẻo đạo bằng cả thân và tâm.
Ngày rằm tháng 11 năm Ất Mùi (1955), Ngài xuất gia học đạo tại Tổ đình Ấn Quang (đã 54 tuổi). Biết mình xuất gia muộn nên Ngài dốc lòng tinh tấn, đồng thời nhờ vào ân đức của chư Tổ Khánh Anh, Tổ Huệ Quang, các bậc Tôn túc như Hòa thượng Viện Trưởng Thích Thiện Hoa, Hòa thượng Giám đốc Phật học đường Nam Việt Thích Thiện Hòa... đã trợ duyên cho Ngài an vui tu học. Do đó một năm sau Ngài đã được thọ Sa Di giới, và được Chư tôn túc đặc cách cho thọ Tỳ Kheo và Bồ Tát giới. Sau đó Ngài xin phép Tổ Khánh Anh chứng minh lời nguyện kiết thất để tĩnh niệm đồng thời nghiên cứu hai bộ kinh Di Đà Sớ Sao và Quy Nguyên Trực Chỉ.
Năm 1957, Ngài được tham dự khóa huấn luyện trụ trì tại chùa Pháp Hội (quận 10, Sài gòn). Sau khi mãn khóa, Ngài được Giáo Hội bổ nhiệm trụ trì chùa Phước Hòa, tỉnh Trà Vinh, nơi này cũng là Phật Học Viện đào tạo Tăng tài cho Phật giáo.
Năm 1958, Ngài trở lên Sài gòn tham dự khóa Như Lai Sứ Giả để hoằng truyền chánh pháp theo triệu tập của Giáo hội.
Đoàn Như Lai Sứ Giả sau khi bế giảng đã thành lập một lực lượng nòng cốt gồm chư Thượng tọa Trường Lạc, Trí Châu, Nhựt Long, Quang Minh, Thiện An, Hiển Pháp, Pháp Siêu... và được chia thành hai đoàn. Ngài làm trưởng đoàn 1, có trách nhiệm đi diễn giảng các tỉnh từ miền Đông như Biên Hòa, Vũng Tàu, Long Điền, Đà Lạt đến các tỉnh miền Tây như An Giang, Châu Đốc, Vĩnh Bình, Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Đéc, Vĩnh Long...
Năm 1959, Giáo Hội Tăng Già Nam Việt cử Ngài giữ chức vụ Tổng Thư ký, kiêm Thủ quỹ Giáo Hội. Đây là chức vụ quan trọng và là bước ngoặt đầu tiên để Ngài bắt đầu những trách nhiệm mới.
Năm 1962, Ngài được mời vào Ban Giám đốc Phật Học Đường Nam Việt - chùa Ấn Quang, với chức vụ Giám Viện.
Năm 1963, trong thời kỳ Pháp nạn, Ngài cũng như các vị Tôn đức khác đấu tranh đòi sự bình đẳng tôn giáo. Trong đợt khủng bố tấn công vào các chùa ngày 30.5.1963, Ngài đã bị bắt giam tại trại Nguyễn văn Phú, Bình Đông - Chợ Lớn cùng với các vị Hòa thượng khác. Sau khi được thả ra, sức khỏe đã sa sút, Ngài phải về an dưỡng tại Niệm Phật Đường Quảng Đức - Cần Thơ.
Năm 1964, Ngài được Giáo Hội bố trí công việc phù hợp sức khỏe là Giáo sư Phật Học Viện Phước Hòa kiêm trụ trì. Đây là lần thứ hai Ngài trở lại chùa cũ. Không lâu sau đó, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập, Ngài lại được cung thỉnh trở lại Sài Gòn để nhận nhiệm vụ Phó Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tài Chánh.
Năm 1966, do yêu cầu Phật sự, Ngài được cử đảm nhiệm chức vụ Chánh đại diện miền Huệ Quang (gồm các tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho, Gò Công). Văn phòng được đặt tại chùa Kim Liên - Mỹ Tho.
Thượng tuần tháng 11.1969, Ngài có dịp cùng Chư Tôn đức khác đi thăm các nước Đại thừa Phật giáo như Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông.
Năm 1971, Ngài cùng hai Thượng tọa Thiền Tâm và Bửu Huệ lên Đại Ninh - Lâm Đồng xây dựng Hương Nghiêm Tịnh Viện, mở các khóa tu tập Tịnh độ cho Tăng Ni sinh chuyên tu. Trong bốn năm với vai trò “LIÊN HẠNH”, Ngài đã đạt được nhiều kết quả như sở nguyện. Năm 1974, sau căn bệnh đột ngột, sức khỏe Ngài sa sút nhiều. Do đó, khi rời Bệnh viện Đà Lạt, Ngài phải lui về an dưỡng tại Niệm Phật Đường Quảng Đức. Mọi việc ở Hương Nghiêm Tịnh Viện đều ký thác cho Hòa thượng Thiền Tâm đảm nhiệm.
Sau năm 1975, Ngài được tín nhiệm mời làm Cố vấn cho Ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Cần Thơ và được mời làm Ủy viên danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hậu Giang và Thành phố Cần Thơ.
Năm 1978 đến 1984, Ngài được bầu vào Chủ tịch đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Cần Thơ với chức vụ Phó Chủ Tịch, liên tiếp trong 3 nhiệm kỳ liền.
Năm 1983, Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh Hậu Giang và Ban Đại Diện Phật Giáo Thành phố Cần Thơ thành lập, Ngài được suy cử ngôi vị Chứng minh Ban Trị sự và kiêm Ủy viên Hoằng pháp Giáo Hội tỉnh.
Năm 1989, Trường Cơ bản Phật học tỉnh Hậu Giang khai giảng, Ngài giữ chức vụ Hiệu trưởng kiêm giáo thọ các môn luật tạng và kinh tạng. Ngày 28.11.1988 Ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tấn phong Hòa thượng và giữ chức chứng minh Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo tỉnh Hậu Giang.
Ngày 8.12.1990 Ngài được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng huy chương “Vì sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc” nhân kỷ niệm 60 năm thành lập.
Ngài cũng đã từng được cung thỉnh làm giới sư trong nhiều giới đàn như: Giới đàn chùa Phổ Minh, Giới đàn chùa Kim Liên (Mỹ Tho), Giới đàn chùa Khánh Quang (Cần Thơ) v.v...
Ngài có năng khiếu về thơ văn, đã từng lấy bút hiệu Thượng Đức trong Tao Đàn Tây Đô thời kỳ chưa xuất gia. Do đó khi làm công tác hoằng hóa, diễn giảng sau này, để kết thúc và cô đọng tinh ý bài giảng, Ngài thường hay dùng thơ để kết luận.
Năm 1990, Ngài đã 90 tuổi, sức lực có hao mòn theo thời gian nhưng trí tuệ vẫn minh mẫn. Trong những ngày tháng cuối đời này, Ngài đã dạy bảo rất nhiều điều hữu ích, vẫn duy trì nếp sống đều đặn thường ngày và không hề xao lãng công tác Phật sự.
Những ngày đầu hạ của năm cuối cùng này, Ngài còn đến chùa Khánh Quang làm Thiền chủ cho Khóa hạ tại đây do Ban Trị sự tỉnh tổ chức. Ngài còn kiêm luôn công việc giảng huấn. Buổi chiều hôm ấy Ngài lại đến chùa Bảo An để chứng minh lễ tác pháp của chư Ni. Khi về, Ngài đã lâm bệnh trầm trọng, nhưng tối đến, Ngài vẫn gắng gượng ngồi đọc cho thư ký riêng ghi chép tham luận chuẩn bị cho một cuộc hội thảo chống mê tín, dị đoan sắp đến. Đó là những cố gắng cuối cùng của đời Ngài.
Ngày 24.10 năm Canh Ngọ (10.12.1990) Ngài viên tịch, sau 90 năm trụ thế, được 34 hạ lạp để lại nhiều lợi ích cho Đạo pháp - Dân tộc của một bậc truyền thừa dòng Lâm Tế, đời thứ 40.
Về phương diện trước tác, phiên dịch, Ngài đã để lại những tác phẩm như:
- Khuyến phát Bồ Đề tâm văn (dịch).
- Các bài văn giác thế.
- Thiền môn trường hàng luật (duyệt xét, giảo chính).
- Ý nghĩa nghi thức tụng niệm (sưu tập).
- Sưu tập giảng luận giáo lý (39 bài).
Tiểu sử Hòa thượng Thích Bửu Huệ
(1914 – 1991)
Hòa thượng Thích Bửu Huệ – nguyên Phó Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm, Phó Tổng lý Tổ đình Ấn Quang, Viện chủ chùa Huệ Nghiêm.
I. THÂN THẾ
Hòa thượng Pháp danh thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ thuộc đời 41 dòng Lâm Tế (chữ Nhựt) và đời 43 thuộc phái Thiên Thai (chữ Tâm). Húy danh: Nguyễn Văn Ba, sinh năm Giáp Dần (1914), tại xã Tân Hương, huyện Bến Tranh, tỉnh Ðịnh Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Hòa thượng sinh trưởng trong một gia đình trung nông, giàu lòng kính tin Tam Bảo. Thân phụ là Ông Ðặng Văn Cử, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Thu. Hòa thượng theo họ mẹ, là người con thứ hai trong gia đình gồm hai anh em.
II. XUẤT GIA HỌC ÐẠO
Thuở nhỏ, Hòa thượng thường theo mẹ đi chùa lễ Phật. Sớm liễu ngộ lẽ vô thường tan hợp, sinh ly tử biệt nên Ngài quyết tâm tìm con đường giải thoát.
Ban đầu, Ngài thọ pháp với Hòa thượng Huệ Ðăng ở chùa Thiên Thai tại Bà Rịa.
Năm 1938, khi được sự chấp thuận của song thân, Ngài quy y với Hòa thượng Pháp Long, thuộc dòng Lâm Tế, Trụ trì chùa Thiên Phước tại Tân Hương. Ngài được Hòa thượng Bổn sư chỉ dạy kinh Phật và hướng dẫn đọc các tạp chí Phật học như Từ Bi Âm, Duy Tâm, Viên Âm, Ðuốc Tuệ…
Năm 1944, Hòa thượng thế phát xuất gia tại chùa Thiên Phước. Tám tháng sau, Ngài thọ giới Sa di ở chùa Long Quang, Vĩnh Long.
Năm 1946, Hòa thượng Trí Tịnh và Hòa thượng Thiện Hoa khai mở Phật học đường tại chùa Phật Quang, Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Vĩnh Long). Ngài được Hòa thượng Bổn sư cho phép tham dự lớp Sơ đẳng Phật học tại đây trong hai năm.
Năm 1948, Phật học đường Liên Hải được thành lập tại chùa Vạn Phước, xã Bình Trị Ðông, do Hòa thượng Trí Tịnh làm Giám đốc. Ngài cùng với các huynh đệ đồng học lớp Sơ đẳng Phật học, tiếp tục tham dự lớp Trung đẳng Phật học trọn khóa ba năm tại đây.
Năm 1949 tại Phật học đường Liên Hải mở Giới đàn, Ngài được Ban Giám đốc cho đăng đàn thọ Tỳ kheo và Bồ tát giới.
Năm 1950, Phật học đường Nam Việt được thành lập tại chùa Sùng Đức, Chợ Lớn.
Năm 1951, Phật học đường Nam Việt dời sang chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh Chợ Lớn. Ngài hoàn tất chương trình Trung đẳng Phật học.
Từ năm 1951 đến năm 1954, Ngài học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt Ấn Quang, cùng với chư huynh đệ đồng khóa như Thượng tọa Huệ Hưng, Thượng tọa Thiền Tâm, Thượng tọa Tắc Phước, Thượng tọa Bửu Ðạt, Thượng tọa Tịnh Ðức, Thượng tọa Tịnh Chơn….
Với đức tánh hiền hòa khiêm tốn, bao dung nhẫn nại, giới hạnh trang nghiêm và tuổi tác cũng lớn hơn các vị đồng học nên Hòa thượng được xem là Người anh cả. Sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Phật học, Ngài cùng với huynh đệ đồng khóa trụ lại Ấn Quang một thời gian để hỗ trợ Hòa thượng Giám đốc và Chư vị Pháp sư trong việc điều hành và quản lý Phật học đường. Ngài đảm nhận chức Tri sự, Thượng tọa Thiền Tâm đảm nhận chức Tri chúng. Ngài luôn hoàn tất tốt mọi công tác mà Ban Giám đốc và Đại chúng giao phó, được người trên quý trọng khen ngợi, kẻ dưới thương yêu kính mến.
Thời gian sau, Ngài và Thượng tọa Thiền Tâm xin phép Ban Giám đốc trở về quê hương để lập thất tịnh tu trong thời gian dài. Hai vị đồng phát nguyện với Ban Giám đốc, sau 10 năm tịnh tu sẽ cùng nhau gánh vác Phật sự nhằm báo ơn Thầy Tổ và Tam bảo.
III.THỜI GIAN HÀNH ĐẠO
Từ lúc cắt ái từ sở thân, xuất gia cầu đạo cả, Ngài đã vạch sẵn một lối đi rõ rệt: “Tôi phát nguyện học Phật 10 năm, nhập thất tịnh tu 10 năm và ra làm Phật sự 10 năm”. Cho nên, sau khi xin phép Ban Giám đốc trở về quê, từ năm 1954 – 1964, Ngài bế quan tại Tịnh thất Nam Tuyền, xã Tân Hương, Tỉnh Định Tường.
Nhận được sự hộ trì tận tâm từ gia đình người anh ruột về vật chất, ba năm đầu kết thất, bằng pháp môn Thiền – Tịnh song tu, Ngài đã hàng phục vọng tâm, an định nội ma, diệt trừ ngoại chướng, dung hòa chơn tục, tỏ tường diện mục, xuất nhập thong dong, an nhiên tự tại. Bảy năm tiếp theo là thời gian tiến sâu hơn vào con đường biện tâm và niệm Phật tam muội.
Từ năm 1958 – 1961, số lượng Tăng sinh ở các tỉnh miền Tây đến Sài Gòn tham học ngày càng đông. Đặc biệt, sau Pháp nạn 1963, Phật giáo bắt đầu khôi phục và khởi sắc, nhu cầu mở rộng Phật học đường là điều tất yếu nên Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Thiện Hòa quyết định dời lớp Trung đẳng vào An Dưỡng Địa, huyện Bình Chánh.
Trong phiên họp ngày 4 tháng 2 năm 1964 tại chùa Ấn Quang, Thượng tọa Thanh Từ thừa ủy nhiệm của Nhị vị Hòa thượng Thiện Hoa và Hòa thượng Thiện Hòa về Tân Hương thỉnh Ngài, và đến Bến Tre thỉnh Thượng tọa Thiền Tâm xả thất để thực hiện sứ mệnh hoằng pháp độ sinh, tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự. Nhận thấy duyên tiếp chúng độ Tăng đã đến nên Ngài và Thượng tọa Thiền Tâm hoan hỷ nhận lời mời và chung tay cộng tác Phật sự. Kể từ đây, Ngài đã chánh thức bước vào con đường tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức.
1) Về mặt giáo dục
Thừa sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Phật học đường Ấn Quang, trường Trung đẳng Phật học Chuyên khoa được thành lập và đặt tại chùa Huệ Nghiêm thuộc huyện Bình Chánh, tỉnh Gia Ðịnh do Hòa thượng Bửu Huệ làm Giám đốc, Hòa thượng Thiền Tâm làm Giáo thọ, Hòa thượng Thanh Từ làm Quản viện. Cùng thời gian đó, Phật học Ni trường Dược Sư được khai mở, cũng dưới sự lãnh đạo của ba vị Hòa thượng.
Trong phiên họp ngày 4 tháng 5 năm 1965 tại chùa Ấn Quang, Ban Giám đốc kết hợp Tổng vụ Tăng sự và Phật học vụ, bàn bạc về việc cải thiện và phát triển ngành Giáo dục Phật giáo. Cuối cùng quyết định đổi tên trường Trung đẳng Phật học Chuyên khoa thành Phật học viện Huệ Nghiêm và tiếp nhận thêm khoảng 300 Tăng sinh vào tu học tại Viện.
Năm 1968, Phật Học viện Huệ Nghiêm trở thành Học viện Chuyên khoa Nội điển nên các Tăng sinh có nhu cầu học song song chương trình thế học và Phật học được chuyển đến các Phật học viện khác để lưu học như: Hải Ðức ở Nha Trang, Liễu Quán ở Phan Rang, Bảo Tịnh ở Phú Yên, Nguyên Thiều ở Bình Ðịnh…
Thể theo lời mời của Thượng tọa Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Văn hóa Giáo dục, Hòa thượng đảm nhận chức Phụ tá Vụ trưởng Phật học vụ, đặc trách các Phật học viện Phật giáo Bắc Tông tại các tỉnh miền Nam.
Năm 1970, Ðại hội Văn hóa Giáo dục Kỳ IV họp tại Tp. Ðà Lạt, Giáo hội quyết định thành lập Viện Cao đẳng Phật học và đặt tại chùa Huệ Nghiêm, suy cử Hòa thượng Trí Tịnh làm Viện trưởng và Hòa thượng Bửu Huệ làm Phó Viện trưởng. Bên cạnh đó, Ngài đóng vai trò trực tiếp quản lý và điều hành chương trình tu học cho các Tăng sinh ở Huệ Nghiêm.
Từ năm 1971 đến năm 1975, Ngài phụ trách giảng dạy bộ môn luận Biện trung biên cho Tăng, Ni sinh ở hai trường Phật học Huệ Nghiêm và Dược Sư.
2) Quản lý cơ sở
Ngày 7 tháng 12 năm 1974, Hòa thượng Thiện Hòa lâm trọng bệnh. Trước sự chứng minh của Ông Chưởng khế Nguyễn Bích Lưu, Hòa thượng Thiện Hòa đã lập văn bản ủy quyền cho Hòa thượng Bửu Huệ quản lý và điều hành các cơ sở trực thuộc Tổ đình Ấn Quang mà Hòa thượng đã sáng lập từ năm 1951 như hãng nước tương Vị trai Lá Bồ Ðề (Cơ sở đặt tại Chùa Giác Sanh, đường Âu Cơ), Cô nhi viện Diệu Quang (huyện Bình Chánh)… Hòa thượng Bửu Huệ vâng theo chỉ thị, ký tên và nhận lãnh trách nhiệm, đồng thời trở thành Thành viên chính thức trong Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang, với chức vụ Phó Tổng lý. Về sau, Hội đồng Quản trị Tổ đình Ấn Quang và Giáo hội Phật giáo suy cử Ngài làm Trưởng ban Ban Quản trị để duy trì và phát triển Cao đẳng Phật học viện Huệ Nghiêm.
Mặc dù phải điều hành nhiều Phật sự của Giáo hội, nhưng Ngài vẫn luôn tập trung vào công tác đào tạo Tăng tài và hướng dẫn hàng Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử tu tập theo pháp môn Tịnh độ, duy trì câu Phật hiệu trong nếp sống sinh hoạt hàng ngày.
3) Khai đàn truyền giới
Năm 1965, thừa sự chỉ đạo của Tổng vụ Tăng sự, Ngài đảm nhận nhiệm vụ Trưởng ban Tổ chức và làm Giáo thọ sư trong Giới đàn truyền Sa di giới cho 200 giới tử, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm.
Năm 1966, thừa sự chỉ đạo của Tổng vụ Tăng sự, Ngài đảm nhận nhiệm vụ Trưởng ban Tổ chức Ðại Giới đàn Quảng Ðức lần thứ I, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm, truyền Tỳ kheo và Bồ tát giới cho các giới tử tại bổn viện và từ các địa phương khác.
Năm 1968, Ngài được Ban Giám đốc Phật học viện Nha Trang và Ban Kiến đàn cung thỉnh làm Giáo thọ sư trong Ðại Giới đàn Hải Ðức, tổ chức tại Phật học viện Trung phần Nha Trang.
Năm 1969, thừa chỉ đạo của Tổng vụ Tăng sự, Ngài đảm nhận nhiệm vụ Trưởng ban Tổ chức Ðại Giới đàn Quảng Ðức lần thứ II, tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm, truyền Tỳ kheo và Bồ tát giới cho các giới tử đến từ các địa phương khác.
4) Dạy chúng tịnh tu
Hòa thượng dạy: “Người xuất gia học đạo, không khác gì một lương tướng xông vào trận giặc, đánh dẹp hiên ngang, trước hết phải tinh thuần võ nghệ. Ðược như thế, thì cách vãn hồi an ninh trật tự cũng không khó.
Trọng trách của người độ hóa quần sinh, trước hết cần phải giải thoát chính mình, bản thân chưa tự cởi trói thì làm sao cởi trói cho người.
Giống như loài trâu, ban ngày ăn no cỏ, tối về nhai lại. Người học Phật, khi tiếp nhận Phật lý thì phải tư duy, nghiền ngẫm thấu đáo rồi mới ứng dụng tu hành. Cho nên việc nhập thất tịnh tu, là một pháp môn thiết yếu trong nhiều pháp môn. Thời gian nhập thất là lúc tư duy Phật lý cho chín muồi và ứng dụng vào đời sống cho viên mãn”.
Sau năm 1975, mọi sinh hoạt Phật sự tại Viện Cao đẳng Huệ Nghiêm có nhiều thay đổi nhưng đều tiến triển nhịp nhàng theo hoàn cảnh xã hội. Ngài hướng dẫn chư Tăng tập trung vào việc tu trì, tránh bớt duyên trần, xây dựng đời sống hướng nội, tinh cần vững chãi trước sự đổi thay của xã hội và tiếp tục duy trì mạng mạch của Phật pháp.
Ngài kiến thiết các tịnh thất để hướng dẫn chư Tăng nơi Phật học viện theo thứ tự luân phiên đả thất, nhằm trau dồi định tuệ, tấn tu đạo nghiệp, thấu triệt nguồn tâm.
Rằm tháng tư năm Bính Thìn (1976), Hòa thượng đã thân lâm chứng minh Lễ sái tịnh khai thất, mở ra chương trình kết thất tịnh tu cho chư Tăng tại bổn viện, lấy lục tự Di Đà làm pháp môn hành trì với tông chỉ một đời vãng sinh Tây phương Tịnh độ.
Hòa thượng thị chúng: “Chúng ta không những làm Phật sự trong một kiếp này, mà còn làm Phật sự cho đến khi Ðức Phật Di Lặc ra đời. Vấn đề trọng yếu, là đừng cho mất thiện căn tu hành.
Phải biết rằng, ngày nay chúng ta đang học và làm bài thi của Ðức Bổn sư Thích Ca. Nhưng Giám khảo chấm thi, đó là Ðức Phật Di Lặc. Ba vị Tam thế Bổn Sư có nhân duyên lớn với chúng sinh trong cõi Ta Bà, đó là Phật Di Ðà, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc.
Như vậy, chúng ta phải làm thế nào để được gặp Phật Di Lặc thọ ký trong hội Long Hoa, có như vậy mới đủ tư cách thượng hoằng Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”.
Ngài thích sống cộng trụ, hòa mình với Đại chúng và xem Tăng thân là những Bậc Thiện trí thức. Ngài thường nói: “Chúng ta nguyện làm Pháp lữ Ðại thừa với nhau, cho đến khi Ðức Từ Thị ra đời!”
Với hơn 300 Tăng sinh được sự giáo dưỡng của Hòa thượng suốt hơn 25 năm tại Phật học viện Huệ Nghiêm, nay đều trở thành những bậc thạch trụ tòng lâm, tiếp nối sự nghiệp hoằng dương Phật pháp và gìn giữ ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
LÂM BỊNH VÀ VIÊN TỊCH
Thân tứ đại mỏi mòn trên cuộc lữ,
Xe Ðại thừa chở khách dặm đường xa.
Duyên giáo hóa vẹn tròn theo năm tháng,
Đường độ sinh muôn thuở ngát hương hoa.
Năm 1980, biến chứng từ căn bệnh sốt rét trong quá khứ có phần nghiêm trọng, dù chư Tăng tại Viện tận tâm tìm kiếm các Bác sĩ Đông y, Tây y để chửa trị nhưng sức khỏe của Ngài bắt đầu suy giảm. Từ đó, việc quản lý và điều hành tại Viện được giao phó Ban Quản chúng đảm nhiệm, Ngài chỉ giữ vai trò Cố vấn chỉ đạo.
Ngài giao phó nhiệm vụ cho bốn vị Thượng tọa: Thích Chơn Lạc, Thích Minh Thông, Thích Chơn Thanh và Thích Thiện Quý, tiếp tục duy trì và phát triển cơ sở Huệ Nghiêm.
Từ năm 1980 – 1991 dù thân mang trọng bệnh nhưng hàng ngày Ngài luôn an trú trong câu Phật hiệu, hòa nhan ái ngữ, từ nhãn thị chúng.
Đầu thu năm Tân Mùi (1991), trong buổi khai thị về niệm Phật, Ngài bảo Đại chúng: “Tôi thấy hoa sen lớn bằng mẫu đất hiện ra trước mặt, ba ngày sau mới tan biến”.
Vào lúc 14 giờ, ngày 27 tháng 10 năm Tân Mùi (02/12/1991), Ngài tắm gội sạch sẽ, gọi Đại chúng đến phương trượng, nói lời từ biệt và xả báo an tường.
Ngài trụ thế 78 năm, 42 hạ lạp.
Theo hồi chuông trống Bát nhã, chư Tăng tại Viện đồng thanh niệm Phật tiễn đưa Người Cha lành trở về quê xưa cảnh cũ và viên thành hạnh nguyện.
Lễ cung tống kim quan cố Hòa thượng, được cử hành vào ngày mồng 1 tháng 11 năm Tân Mùi (06/12/1991). Bảo tháp lập tại chùa Huệ Nghiêm.
IV. TỔNG KẾT
Hòa thượng Bửu Huệ đã hiến trọn cuộc đời thanh tu của mình cho chúng sinh và đạo Pháp. Hơn 40 năm không kể gian lao, chẳng từ khó nhọc, bằng tấm lòng từ bi vô ngã, bình đẳng vị tha, Ngài đã tận tâm trong sự nghiệp đào tạo Tăng tài và dẫn dắt tín đồ Phật tử bước theo con đường Chánh pháp.
Về mặt tự độ, Hòa thượng là bậc chân tu thanh tịnh. Ngài thích cuộc sống ẩn dật tịch tĩnh nhàn cư, an trú trong chánh định của Thiền và tam muội của Phật hiệu. Với phương châm “Muốn độ tha thì trước hết phải tự độ”; cho nên, sau khi hoàn tất quá trình tham học, Ngài trở về quê hương, dành 10 năm để kết thất tịnh tu, gội rửa não phiền, lau chùi gương tâm. Vì thương tưởng đến chúng sinh và để báo đền ơn Thầy Tổ nên Ngài mới rời xa cảnh giới khinh an tịnh lạc của chánh định mà dấn thân vào con đường hoằng pháp độ sinh.
Về mặt độ tha, trong sự nghiệp giáo dục, Hòa thượng là bậc Thầy uyên bác và dày dặn kinh nghiệm, có tầm nhìn sâu rộng ở hiện tại và tương lai. Trải qua 25 năm, Ngài đã cùng chư Tôn đức đương thời đã giáo dưỡng và đào tạo cho Giáo hội Phật giáo những bậc đống lương, thạch trụ, giúp cho ngôi nhà Phật pháp thêm vững mạnh và trường tồn.
Nhân duyên với cuộc đời đã mãn, hạnh nguyện với chúng sinh đã vẹn tròn, Hòa thượng nhẹ gót về Tây, để niềm tiếc thương và sự mất mác to lớn đối với Giáo hội và hàng Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử.
Nam mô Huệ Nghiêm đường thượng, tự Lâm Tế Chánh tông tứ thập tam thế, húy thượng Tâm hạ Ba, tự Nhựt Quang, hiệu Bửu Huệ Đại lão Hòa thượng giác linh thùy từ chứng giám.
Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM
(1925-1992)
TỰ CẢM
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên Nhứt-niệm,
Di-Đà sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
THƯƠNG NHỚ ÂN THẦY
Thương tiếc Thầy ơi vĩnh biệt rồi
Thương Ngài Liên Huấn đã chia phôi
Thương ai nhập thất cam nhẫn nhục
Thương cảnh lâm chung xúc động hồi.
Nhớ lúc Hương Nghiêm lập đạo tràng
Nhớ ban Liên đạo lúc Đông sang
Nhớ dáng Thầy đi thung dung quá
Nhớ lời thanh nhã lệ đôi hàng.
Ân đức cao thâm tợ đất trời
Ân sư dạy chúng vẫn còn nơi
Ân hoà hiệu Phật trong lòng chúng
Ân huệ từ bi mãi với đời.
Thầy đã ra đi chẳng một lời
Thầy về Cực Lạc mới thảnh thơi
Thầy ơi sao vội đi mau quá
Thầy để đàn con xót chẳng vơi.
Thành kính tưởng niệm Giác Linh Hoà Thượng Thượng Thiền hạ Tâm, Liên Huấn Hương Nghiêm Tịnh Viện viên tịch - 21/11 Nhâm Thân (1992).
Mười Phương Thức Trì Danh
1. PHẢN VĂN TRÌ DANH
Miệng niệm tai nghe trở vào trong
Rành rẽ từng câu kiểm soát lòng
Tuy nghe nhưng phải không dính mắc
Lần lần vọng tưởng thấy đều vong.
Cảnh giới thân tâm đều dứt bặt
Thời gian nơi chốn cũng là không
Phản văn thuận tiện trừ tạp niệm
Nhứt tâm sớm được dễ thành công.
2. SỔ CHÂU TRÌ DANH
Miệng niệm tay lần nối tiếp nhau
Ban đầu ý niệm chưa quên chuỗi
Sau bỏ buông lần tập dứt lâu.
Niệm lực kiên cường cách sổ châu
Như người leo núi yếu chân đau
Nhờ vậy tiến cao lên lên mãi
Nhưng phải rõ ràng chớ ỷ mau.
3. TUỲ TỨC TRÌ DANH
Niệm theo hơi thở đếm ra vào
Đều đều không chậm lại không mau
Vừa chăm niệm Phật lo hơi thở
Vọng niệm thưa dần vẫn chí lâu.
4. TRUY ĐẢNH TRÌ DANH
Mỗi chữ mỗi câu kế tiếp nhau
Thành hình chặt chẽ chữ trước sau
Câu nọ gối đầu câu kia chặt
Chánh niệm phân minh tạp chẳng vào.
5. GIÁC CHIẾU TRÌ DANH
Niệm Phật soi lại chân tánh mình
Hành trì miên mật sẽ hư linh
Thân tâm cảnh giới đều không cả
Sáng trong làm vẻ cảnh tịnh minh.
6. LỄ BÁI TRÌ DANH
Vừa lạy vừa xưng một Phật danh
Ba nghiệp tập trung dạ chí thành
Giải đãi hôn trầm đều dứt tuyệt
Công cao hiệu lực lại càng nhanh.
7. KÝ THẬP TRÌ DANH
Niệm đến mười câu làm đơn vị
Đủ rồi mới lại một hột lần
Tâm vừa nhớ Phật thêm nhớ số
Tạp niệm bớt dần ý sạch lâng.
8. LIÊN HOA TRÌ DANH
Bốn sắc sen xanh đỏ trắng vàng
Vừa tuyên Phật hiệu tưởng phóng quang
Màu nào sáng ấy liên tục mãi
Lại tưởng hương sen toả nhẹ nhàng.
Mượn dùng hình sắc buộc tâm duyên
Thất bảo hoa sen chốn tịnh miền
Niệm Phật diệu liên hoa Tam muội
Ấy là công đức kẻ bền chuyên.
9. QUANG TRUNG TRÌ DANH
Niệm Phật nhắm mắt thấy màu đen
Hình tưởng uế ô tạp sắc hèn
Niệm tưởng ngồi trong vùng ánh sáng
Quang minh tâm định vọng nào xen.
10. QUÁN PHẬT TRÌ DANH
Vừa niệm vừa xen quán Phật đà
Thân màu trượng sáu đứng bảo hoa
Sắc vàng rực rỡ ngang trước mặt
Quán diệu công thành vẫn chẳng xa.
Nhưng phải tịnh tâm vọng tưởng trừ
Ba hai tướng đẹp duyệt kinh thư
Nếu hoặc nghiệp sâu căn tối chậm
Dễ gì thấy được Phật như như.
Mười Phương Thức Trì Danh
Như đã nói, môn Trì Danh là pháp tu Tịnh Độ phổ thông nhứt hiện nay. Nhưng Trì Danh cũng được áp dụng với nhiều cách thức khác nhau tùy theo căn tánh của mỗi người, mà bút giả xin gạn lọc lại qua mấy phương pháp như sau:
1. Phản Văn Trì Danh: - Phương pháp này, miệng vừa niệm, tai vừa nghe vào trong, kiểm soát từng chữ từng câu cho rành rẽ rõ ràng hết câu này đến câu khác. Nghe có hai cách, hoặc dùng tai nghe, hoặc dùng tâm để nghe. Tuy nghe vào trong nhưng không trụ nơi đâu, lần lần quên hết trong ngoài, cho đến quên cả thân tâm cảnh giới, thời gian không gian, chỉ còn một câu Phật hiệu. Cách thức phản văn, khiến cho hành giả dễ gạn trừ vọng tưởng, mau được nhứt tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói:
"Chân giáo thể phương này, thanh tịnh do nghe tiếng. Muốn chứng vào Tam Muội, nên như thế tu hành"; chính là ý trên đây.
2. Sổ Châu Trì Danh: - Đây là cách thức miệng vừa niệm tay vừa lần chuỗi, ban đầu ý niệm còn ràng buộc nơi tràng hạt, sau lần buông bỏ đi đến cảnh nhứt tâm. Phương pháp sổ châu khiến cho niệm lực mạnh mẽ, ví như người yếu chân đi núi, nhờ nương cây gậy mà tiến bước lên cao mãi. Niệm cách này lại cần phải ghi số mỗi thời hoặc mỗi ngày là bao nhiêu câu. Ghi số có điểm lợi là bắt buộc người tu phải giữ định số, trừ được bịnh biếng trễ; nhưng cần chú ý đừng quá tham mau, tham nhiều mà niệm không được rành rẽ, rõ ràng. Người xưa tuy niệm nhiều nhưng cũng ở trong sự rành rõ, do nhờ hai điểm là: thuần thục và định tâm. Ngẫu Ích đại sư vị Tổ thứ chín của Liên Tông, từng khai thị:
"Muốn đi đến cảnh giới NHẤT TÂM BẤT LOẠN, không có cách chi kỳ diệu khác. Trước tiên hành giả cần phải lần chuỗi ghi số, niệm niệm rành rẽ rõ ràng, mỗi ngày hoặc ba muôn, năm muôn, cho đến mười muôn câu, giữ khóa trình quyết định chẳng thiếu, thề một đời không thay đổi. Niệm như thế lâu ngày lần lần thuần thục, không niệm vẫn tự niệm, chừng ấy ghi số hay không ghi số cũng được. Và niệm như thế kèm thêm tín nguyện tha thiết, mà không được vãng sanh, thì chư Phật ba đời đều mang lỗi nói dối. Khi đã vãng sanh, tất cả pháp môn đều được hiện tiền. Nếu ban sơ vì cầu cao tự ỷ, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học theo lối viên dung tự tại, đó là tín nguyện chẳng bền sâu, hành trì không hết sức; dù có giảng suốt mười hai phần giáo, giải ngộ một ngàn bảy trăm công án, cũng là việc ở bên bờ sanh tử mà thôi."
Lời khuyên dạy này thật là cây kim chỉ nam cho người niệm Phật.
3. Tùy Tức Trì Danh: - Niệm Phật thầm hay niệm se sẽ tiếng, nương theo hơi thở, mỗi hơi thở ra vào đều một câu Phật hiệu; đó là ý nghĩa của Tùy Tức Trì Danh. Bởi mạng sống con người liên quan với hơi thở, nếu biết nương theo đây mà niệm, thì khi sống hằng không rời Phật, lúc lâm chung tất hơi vừa tắt, liền về cảnh giới Liên Bang.
Nhưng nên chú ý là phương thức này khi tập đã thuần thục, cần niệm ra tiếng, chớ không nên chỉ niệm thầm. Như thế niệm lực mới mạnh, ý nguyện cầu sanh dễ được phát khởi.
Bằng không, ý niệm vãng sanh sẽ khó tha thiết và sợ e lại lạc vào công dụng Ngũ Đình Tâm Quán của Tiểu Thừa.
4. Truy Đảnh Trì Danh: - Khi dùng cách này, nên niệm nho nhỏ tiếng, mỗi chữ mỗi câu đều kế tiếp nhau liên tỏa chặt chẽ, thành hình thế chữ sau đuổi theo chữ trước, câu nọ gối đầu câu kia nên gọi là Truy Đảnh. Áp dụng phương thức như thế, nhờ sự kín đáo bền chặt, trung gian không xen hở, nên tạp niệm không có chỗ len vào. Dùng đến pháp này, thì tình ý khẩn trương, tâm miệng dũng tiến, oai lực của chánh niệm bao trùm tất cả, khiến cho nghiệp tưởng vô minh tạm thời chìm lắng, ánh mầu Tam Muội bộc phát chiếu xa.
Từ xưa người tu tịnh nghiệp trong lúc tình tưởng mênh mang rối loạn, thường dùng cách thức này.
5. Giác Chiếu Trì Danh: - Niệm theo Giác Chiếu là một mặt niệm Phật, một mặt hồi quang soi trở lại chân tánh của mình. Do niệm như thế, hành giả sẽ đi vào cảnh giới hư linh siêu tuyệt, chỉ còn cảm giác thân tâm của mình cùng chân tâm Phật ngưng đọng thành một khối, sáng tròn rỡ rỡ, đầy rộng mênh mang. Khi đó phòng nhà vật dùng thảy đều ẩn mất, cho đến thân giả tứ đại của ta cũng không biết rơi lạc vào chỗ nào. Niệm theo đây thì báo thân chưa mãn đã chứng tịch quang, Phật hiệu vừa tuyên liền vào Tam Muội. Đem thân phàm phu mà dự vào cảnh thánh, thật không chi mau lẹ hơn phương pháp trên đây.
Song chỉ tiếc, nếu chẳng phải bậc thượng thượng căn tất không thể lãnh hội thật hành, nên phần độ cơ của cách thức này vẫn còn sơ hẹp.
6. Lễ Bái Trì Danh: - Phương thức này là vừa lạy vừa niệm Phật. Hoặc niệm một câu lạy một lạy, hoặc một mặt niệm một mặt lạy, không luận câu Phật nhiều hay ít. Cách lễ Phật lại phải hết sức nhẹ nhàng chậm rãi, lễ niệm song hành, thân miệng hợp nhứt. Nếu thêm vào đó ý thành khẩn tha thiết, thì thành ra ba nghiệp đều tập trung, ngoài câu Phật hiệu không còn một tơ hào vọng niệm. Phương pháp này có sở năng phá trừ hôn trầm, công đức và hiệu lực rất to lớn, vì hành giả vận dụng cả ba nghiệp để trì niệm. Cư sĩ Vương Nhật Hưu khi xưa từng áp dụng cách trên đây, mỗi ngày đêm ông lễ niệm trung bình là một ngàn lạy. Nhưng dường như đây là lối niệm đặc biệt của hạng người tâm lực tinh tấn, thiếu khả năng ấy tất khó vững bền, bởi lạy lâu thân thể mỏi nhọc, dễ sanh chán nản.
Cho nên thông thường, cách thức này chỉ hợp kiêm dụng, khó bề chuyên dụng.
7. Ký Thập Trì Danh: - Đây là cách niệm ký số, cứ lấy mỗi mười câu làm một đơn vị. Người hơi ngắn có thể niệm thành hai lượt, mỗi đoạn năm câu; hoặc chia ra ba lượt, hai đoạn ba câu một đoạn bốn câu. Sau khi niệm đủ mười câu, đều lần qua một hạt chuỗi. Niệm theo lối này, tâm đã niệm Phật, lại còn phải ghi nhớ số. Như thế dù không chuyên cũng bắt buộc phải chuyên, nếu không chuyên thì số mục liền sai lạc.
Cho nên pháp này đại để là một phương tiện cưỡng bức cho hành giả chuyên tâm, rất có công hiệu với những kẻ nhiều tạp niệm. Ấn Quang đại sư thường khuyên các liên hữu áp dụng cách thức trên đây.
8. Liên Hoa Trì Danh: - Lấy bốn sắc hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, vừa niệm vừa tưởng, luân lưu chuyển tiếp, là danh nghĩa của lối niệm trên đây. Hành giả khi niệm câu Phật hiệu thứ nhứt, tưởng trước mặt mình hiện ra một đóa sen xanh to lớn phóng ánh sáng xanh. Câu thứ hai, tưởng hoa sen vàng phóng ánh sáng vàng. Cho đến câu thứ ba thứ tư, là hoa sen đỏ, trắng, màu nào phóng ánh sáng ấy. Kế tiếp tục tưởng lại hoa sen màu xanh, cứ như thế luân lưu mãi. Đồng thời khi hoa hiện, lại tưởng có hương sen thanh nhẹ phưởng phất xung quanh. Bởi có nhiều hành giả trong Liên Hoa Tông dùng mọi pháp thức vẫn khó ngăn được tạp niệm, nên cổ nhơn mới phát minh ra lối niệm này. Đây là cách dùng hình sắc thay đổi để buộc tâm tưởng cho chuyên nhất, và hình sắc này lại lấy tướng hoa sen nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc "Một câu Di Đà, một đóa bảo liên", bởi hoa sen Tịnh Độ hiện thành không rời hoa sen công đức của tâm niệm Phật. Và khi mạng chung, thần thức của hành giả sẽ nương hoa sen báu ấy mà sanh về Cực Lạc.
Chư liên hữu nếu thấy có duyên với phương thức trên đây, nên áp dụng để mau đi vào Niệm Phật Diệu Liên Hoa Tam Muội.
9. Quang Trung Trì Danh: - Vì có hành giả khi nhắm mắt niệm Phật, thường bất chợt thấy những hình tướng ô uế, hoặc màu sắc đen tối xao động nổi lên, nên cổ đức mới truyền dạy cho cách thức này. Đây phương pháp vừa niệm Phật, vừa tưởng mình đang ngồi giữa vùng ánh sáng trong suốt to rộng. Khi tâm đã an định trong vùng quang minh ấy, hành giả cảm thấy thần trí sáng suốt mát mẻ, không những tạp tưởng trừ dứt, mà các tướng uế ác cũng tiêu tan. Rồi chánh niệm do đó được bền lâu, và Tam Muội cũng do đó lần lần thành tựu.
Đây tuy là phương tiện đặc biệt chuyên trừ tướng uế ác nhưng dù không có nghiệp bịnh ấy, nếu muốn tinh thần thơ thới để đi sâu vào Niệm Phật Tam Muội, hành giả cũng nên áp dụng cách thức này.
10. Quán Phật Trì Danh: - Pháp quán tưởng trong Quán Kinh rất trọng yếu, công đức cực to rộng, nhưng chưa phải là phương tiện phổ thông cho chúng sanh thời mạt pháp hành trì. Nhưng vì không muốn bỏ công đức đặc biệt của quán pháp, nên cổ nhơn đã thể dụng trong mười sáu phép quán, lựa cách thức dễ tu tập nhứt, lấy trì danh làm chánh, quán Phật làm phụ, gọi là Quán Phật Trì Danh.
Hành giả mỗi ngày sau khi niệm Phật, lại để riêng một thời tịnh tâm quán tưởng sắc tướng quanh minh của Phật A Di Đà. Cách quán Phật này rút lựa phép quán thứ mười ba trong Quán Kinh, tưởng đức A Di Đà thân cao một trượng sáu, sắc vàng ròng, đứng bên bờ ao thất bảo. Nếu chưa quán tưởng được ao thất bảo, hành giả có thể tưởng đức Phật đứng trong vùng ánh sáng giữa hư không trước mắt mình, tay trái đưa ngang ngực bắt ấn kiết tường, tay mặt buông sè xuống theo thế tiếp dẫn.
Muốn quán Phật cho thành tựu, trước tiên nên quán đại khái toàn thân, kế chỉ chuyên tâm quán tướng lông trắng giữa đôi mày. Tướng bạch hào này rỗng không trong suốt như bạch ngọc, có tám cạnh, xoay về bên hữu cao thành năm vòng. Bạch hào là tướng căn bản trong ba mươi hai tướng, khi tướng này quán thành, do sự cơ cảm, các tướng kia đều lần lượt hiện rõ. Tuy nhiên, muốn được phần chắc chắn hành giả cũng nên duyệt xem trong kinh, để ghi nhớ rõ ba mươi hai tướng tốt của Phật trước khi dụng công.
Phương pháp trên đây sở dĩ để Trì Danh vào phần chánh, vì nếu quán tưởng không thành vẫn còn phần Trì Danh để bảo đảm cho sự vãng sanh. Nhưng thật ra, Trì Danh cũng giúp quán tưởng, quán tưởng lại phụ dực cho Trì Danh, hai phần này hỗ tương đưa hành giả đến chỗ song song thành tựu.
Pháp thức này tuy có phần khó hơn các lối trên, song nếu thành tựu thì công đức to rộng vô biên, nên xin đưa ra sau cùng để làm duyên khuyến tấn.
Như trên đã lược trình mười lối Trì Danh, cũng là mười phương pháp cốt yếu để đối trị tâm bịnh của người niệm Phật. Trong các sách Tịnh Độ, có đưa ra đến mấy mươi cách như: Cao Thanh Trì Danh, Đê Thanh Trì Danh, Mang Trung Trì Danh, Nhàn Trung Trì Danh, v.v... nhưng đó chỉ là những lối niệm cao tiếng, thấp tiếng, khi gấp, khi huỡn, chưa có thể gọi là một phương pháp niệm Phật. Vì thế, bút giả đã chọn lọc lại rút ra mười cách thức căn bản, khả dĩ gọi là "phương pháp", để đối trị mối chướng hôn trầm tán loạn, và có thể thông dụng cho một phần lớn căn tánh hiện thời.
Trong mười pháp thức trên, các liên hữu có thể thí nghiệm qua, và sau cùng áp dụng một lối niệm nào mà mình thích hợp nhứt...
Điểm căn yếu của môn Niệm Phật là: TÍN, NGUYỆN, HẠNH. Ba điều này tương quan với nhau như cái đảnh có ba chân, thiếu một tất phải sụp đổ. Trong đây tín lại là nền tảng, nếu thiếu nhu yếu này, thì không thể khởi sanh Nguyện và phát động Hạnh tu trì cho thiết thật. Riêng về điểm Tín, đại khái có ba điều:
1. Trước tiên, phải tin lời đức Thế Tôn nói, nhận chắc cõi Cực Lạc từ nhơn vật đến cảnh giới đều có thật.
2. Kế đó, phải tin đức A Di Đà không có lời nguyện dối, chúng sanh dù nghiệp nặng, nếu niệm đến danh hiệu Ngài, quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng sanh.
3. Thứ ba, phải tin ta niệm Phật, nguyện về cõi Phật, quyết sẽ được thấy Phật được vãng sanh, nhân nào quả ấy không thể sai lạc.
Ba điều này chỉ là khái yếu, nếu suy diễn ra rộng, trong ấy gồm có sáu phần: TIN MÌNH, TIN PHẬT, TIN NHÂN, TIN QUẢ, TIN SỰ, TIN LÝ. Điều thứ nhất bao gồm tin lời Phật và tin sự, lý Tịnh Độ đều có thật.
Điều thứ hai bao gồm tin đại nguyện của Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài.
Điều thứ ba bao gồm tin bản tâm mình, nguyện lực mình, và nhân cùng quả của công hạnh niệm Phật.
Nhân chắc ba điều vừa nói, mới gọi là tin sâu. Lại tin sâu không phải thuộc lời nói bên ngoài hay ý nghĩa phân biệt mà là sự thể nhận, là tâm trong sạch không còn một điểm nghi ngờ. Cho nên khi xưa ông Vương Trọng Hồi hỏi một vị thiện trí thức: "Làm sao quyết chắc được sanh về Cực Lạc?" Vị ấy đáp: "Chỉ tin nhận sâu, là chắc chắn được vãng sanh." Ông ghi nhận và ngộ giải lời nói ấy, quả nhiên về sau được toại thành như ý nguyện.
Sự tin sâu có ích lợi là như thế.
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
2. Quyến-Sách Thủ Nhãn Ấn Pháp
Ma Ra Na Ra [62]
Ta-bà ha [63]
Án-- chỉ rị lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Na Ra Cẩn Trì [49]
Na Ra Cẩn Trì [60]
Ta-bà ha [61]
Án-- yết lệ, thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Cố Ni-Sư THÍCH NỮ THANH NGUYỆT
1940-2002
Pháp-hiệu PHƯƠNG LIÊN, Thế-danh PHẠM THIÊN HƯƠNG
VIỆN CHỦ PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ
MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG
TRƯỞNG TỬ của cố Hòa thượng Đại-Ninh THÍCH THIỀN TÂM
Soạn Giả: Ưu Bà Di, Bồ Tát Giới BẢO ĐĂNG
Giảo Chánh: Sa môn THÍCH HẢI QUANG
Xuất Bản: Pháp Hoa Tự, Tucson-Arizona
Nếu như đã nói đến cố Hòa thượng Đại ninh THÍCH THIỀN TÂM tôn sư mà không nhắc đến vị truyền nhân, trưởng tử của ngài là: Ni sư Thích nữ THANH NGUYỆT, thì theo như Bảo Đăng tôi nghĩ đó là một điều thiếu sót lớn lao vậy. Vì thế nên mới có thêm phần phụ lục sau đây để lược sơ qua về vị trưởng tử này của cố tôn sư Hòa thượng.
Mặc dù chưa được một lần nào diện kiến và tiếp chuyện cùng với ni sư, nhưng qua những lời khen tặng của Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang mỗi khi nhắc đến người, nhất là về những sự trung nghĩa, hiếu thuận, khí tiết (trượng phu nhi nữ) và hết lòng đối với tôn sư là cố Hòa thượng, nên Bảo Đăng cũng thấy lòng mình dâng lên ít nhiều cảm mến ở nơi vị nữ TĂNG đặc biệt, xuất cách này.
Theo lời kể lại của Đại Đức Bổn sư và thêm một ít phần góp nhặt của tôi trong các lần về Việt Nam để sưu tầm tài liệu cho quyển sách này, tôi được biết (một cách khái quát) về ni sư như sau:
– Ni sư người Mỹ Tho,con của một vị võ sư nổi tiếng, thân mẫu của người là một nội trợ đức hạnh, từ hòa và là cháu của sư ông: Cố Hòa thượng Linh Phước Tự (Mỹ Tho).
Chắc có lẽ do nơi thiện căn tu tập trong tiền kiếp chiêu cảm nên ngay từ khi còn thơ ấu, ni sư rất mến mộ Phật pháp và ưa thích tu hành.
Trong thời gian cố Hòa thượng còn nhập thất và ẩn tu ở Cái Bè, (lúc đó ni sư còn nhỏ, tuổi khoảng 15) duyên may gặp được ngài, cảm mến qua phong thái và đạo đức của Đại sư, nên người phát tâm cung kính, lễ lạy Hòa thượng, nguyện nương theo tu học và xin xuất gia, tôn Hòa thượng lên làm sư phụ.
Sau khi được Hòa thượng chấp nhận và thế độ cho xuất gia vào khoảng năm 18 tuổi (còn quá trẻ đẹp),ban đầu được cố Hòa thượng ban tứ cho pháp danh là TÂM NGUYỆT (mặt trăng của chơn tâm), người vừa tu vừa được Hòa thượng cho tiếp tục theo học thế pháp (Trung học) để có đủ trình độ kiến thức phổ thông hầu sau này khả dĩ có thể đảm nhận được gánh nặng hoằng dương đạo pháp và chấp chưởng đạo nghiệp, giang sơn của ngài (Phương Liên tịnh xứ, xứ chủ).
Thời gian này Hòa thượng gởi cho Sư Cô y chỉ (học đạo) với ni sư trưởng Diệu Ngộ (tức là ni sư Phổ Đức, chùa Phổ Đức và chùa Thiện Phước, Mỹ Tho).
Sau khi tốt nghiệp Trung học xong (đậu Tú tài 2) Sư Cô được Hòa thượng đồng ý và chấp nhận cho lên Sài Gòn (cũng để vừa tu học nội điển và ngoại điển (Đại học) thêm. Về phần nội điển thì khi Sư Cô lên Sài Gòn, Hòa thượng gởi cho Sư Cô về học tại ni trưởng Từ Nghiêm và nương y chỉ nơi ni trưởng Đạt đạo tại Pháp Quang tự.
Thời gian này Sư Cô thọ đại giới Tỳ Kheo ni và theo thứ tự trong dòng pháp (xuất gia Bồ tát giới) được đổi lại pháp danh là Như nguyệt, nương y chỉ và cầu pháp cùng với vị thầy thứ ba là ni trưởng HUYỀN HỌC, tổng vụ trưởng tổng vụ ni bộ Bắc Tông nơi chùa Từ Nghiêm. Về mặt ngoại điển thì Sư Cô theo học tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Là một Sư Cô Thích nữ có trình độ học thức và một khả năng văn hóa cao (sinh viên Văn khoa), nên trong thời gian này, thừa lệnh của ni cô, Sư Cô đảm nhận chức vụ giáo học, dạy về thế pháp (dạy văn hóa phổ thông) cho chư ni nơi hai ni trưởng Dược sư Từ Nghiêm, đồng thời kiêm nhiệm luôn cả chức vụ y tá trưởng trông coi việc điều trị thuốc men và săn sóc cho chư ni mỗi khi có ốm đau, bệnh hoạn (tiện hơn là phải đi bác sĩ khám bệnh theo lối của người đời).
Kế tiếp sau đó, tuân lịnh của ni bộ và giáo hội, Sư Cô đảm nhiệm chức vụ giám đốc (hiệu trưởng) trường Bồ đề Văn Lang trông nom và dạy về giáo lý căn bản cho các học sinh trong trường.
Khi Hòa thượng về Đại Ninh để ẩn tu vào cuối năm 1968 thì Sư Cô cũng vẫn còn ở nơi chùa Từ Nghiêm và tiếp tục đảm trách các nhiệm vụ của mình trong ni bộ.
Năm 1969 nhân dịp về Đại Ninh thăm thầy (Hòa thượng bổn sư), vì nhận thấy Hòa thượng sống rất đơn chiếc, thiếu thốn tứ sự và bị đệ tử hộ thất làm eo sách, khó dễ (gia đình của vị này có dụng ý muốn “chiếm giữ” cố Hòa thượng để làm “của riêng’ cho mình nên ít nhiều có âm mưu cô lập Hòa thượng không để cho ngài được tự do hành xử mọi chuyện theo ý định).
Thấy thế nên Sư Cô nóng lòng, sốt ruột cho một bậc tôn sư và cũng là Thầy Tổ của mình, sau khi ngỏ lời xin hộ thất và được sự hứa khả của cố Hòa thượng, Sư Cô liền trở về Sài Gòn bạch lên ni bộ xin hoàn trả lại tất cả chức vụ của mình rồi khăn gói, thân gái dặm trường, nhắm hướng Phú An và Đại Ninh trực chỉ.
(Đến đây Bẳo Đăng lược thuật theo sự kể lại của Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang. về việc vì sao mà cố Hòa thượng lại chấp thuận để Sư Cô về hộ thất cho ngài một cách đặc biệt dễ dàng như vậy?)
– Khi còn hầu cận bên cạnh Hòa thượng (trước năm 1977) tự thân của thầy bổn sư có nghe cố Hòa thượng kể lại về lý do này như sau:
Lúc đó cố Hòa thượng đang còn ở tại Hương Quang tịnh thất và từ chúng cũng đã có vân tập về đây một số khá đông rồi. Đêm ấy ngài nằm mơ thấy mình đang đi trên con đường nhỏ xuyên qua một sơn cốc(hẻm núi) thì bỗng nhiên bị cường sơn, thảo khấu (ăn cướp núi) ở đâu không biết ào ra vây phủ đòi nạp tiền “mãi lộ” và áp tới bắt ngài, đang khi ngài còn bối rối thì bỗng nhiên có thêm giông gió thổi đến nữa và rồi mưa rơi như trút nước, làm cho mình mẩy của ngài bị ướt loi ngoi, bùn lầy văng lấm quần áo hết!
Trong mơ ngài nghĩ rằng:
– Mới vừa bị sơn tặc cướp đồ đạc xong bây giờ lại bị thêm mưa và bùn lầy làm cho dơ bẩn nữa. Bữa nay sao mà xui xẻo quá. Đang nghĩ ngợi và buồn như vậy thì ngài thấy từ phía trên không trung sa xuống ba con rồng trắng (bạch long) bao bọc chung quanh ngài, kế đó gió, mưa, sấm sét rơi rớt ào ào, nổ vang trời động đất, Hòa thượng thấy vậy mới ngồi xuống chắp tay niệm Phật, một hồi lâu mưa dông chấm dứt, ngài mới đứng dậy mà đi, thì thấy ba con bạch long kia cả mình đều bị xơ xác hết (vì đem thân che gió mưa cho Hòa thượng) ngài mới khen rằng:
– Giỏi lắm, biết xả thân làm hộ pháp giúp ta như vậy, sau này thầy sẽ đền ơn.
Ba rồng ấy gật đầu chào rồi hiệp thân lại thành ra một con rồng duy nhất, bay bổng lên không đi mất.
Sau khi thức dậy ngài mới suy nghĩ ý nghĩa của điềm mộng thì ngài biết rằng sau này khi tử chúng vân tập về đây nương theo mình tu tập rồi thì thế nào mình cũng sẽ bị họ quấy rối, gieo tiếng thị phi và tranh danh, đoạt lợi với mình trong cảnh “trâu cột ghét trâu ăn” làm cho mình bị tổn thương (mang tiếng tăm)không ít – và quả nhiên y chang như vậy (đó là việc sau – xin miễn viết lên vì không là bản ý và phần chánh trong đoạn phụ lục này).
Còn ba con rồng kia là hộ pháp đến giúp mình. Vậy thì ứng vào ai đây nhỉ? Cố Hòa thượng tự hỏi như vậy …và ngài chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra cho biết.
Đến khi Sư Cô Như Nguyệt từ Sài Gòn lên thăm thì ngài nghĩ cô chính là con rồng ấy vì Sư Cô tuổi Thìn(Canh Thìn) nhưng ngài cũng còn thắc mắc một điều là trong mơ ngài thấy đến ba con rồng kia. Vậy thì hai con nữa là ai? Trong mấy ngày Sư Cô Như Nguyệt ở Đại Ninh thăm thầy và sau đó Sư Cô ngỏ lời xin được về ở luôn tại đây để hộ thất cho cố Hòa thượng thuận duyên chuyên tu hơn thì ngài cũng chưa chấp thuận nữa. Nhân dịp hỏi kỹ lại ngày tháng năm sinh của cô – để cho có thêm yếu tố quyết định Yes hay No – thì ngài mới chợt khám phá ra rằng Sư Cô sanh nhằm vào ngày THÌN, tháng THÌN và năm THÌN (3 con rồng nằm trong một người Thích nữ này).
Nhớ đến điềm chiêm bao trước đây, nên ngài biết rằng người đệ tử hộ thất, hộ pháp cho mình trong những năm dài còn lại tới đây chính là vị Sư Cô này – đệ tử thế độ – của mình chớ không phải là ai khác nữa.
Do vì lý do đó nên ngài mới chấp nhận dễ dàng cho Sư Cô được về bên cạnh ngài như vậy trong khi có rất nhiều người “nạp đơn, ứng tuyển” để được làm thị giả hầu ngài mà ngài vẫn không cho và đây cũng là một nguyên nhân khiến cho ngài (và cả Sư Cô nữa) bị nhiều tai tiếng sau này.
Sau khi về Đại Ninh xong, Sư Cô được cố Hòa thượng đổi pháp danh lại là THANH NGUYỆT (trăng tỏ đêm rằm) và dùng pháp danh mới này mãi cho đến ngày nay.
Là một nhi nữ thuộc về loại “trắng da, dài tóc” (ý quên, ở đây phải gọi là trắng da, trọc tóc mới đúng vì đương sự là một Sư Cô), từ lâu đã quen nơi chốn thị thành, chùa cao, miếu rộng, nay theo thầy về Đại Ninh là chốn núi rừng heo hút, sơn lam, chướng khí chập chùng (nghĩ cũng đáng thương và tội nghiệp lắm) nên Sư Cô thường hay bị bịnh hoạn èo uột, lặt lìa, có nhiều lúc tưởng đâu sắp sửa về “chầu Phật tổ”!
Từ đó về sau, trải qua biết bao gian khổ nhọc nhằn khó mà kể cho xiết được … rất nhiều đệ tử khác vì chịu không nổi các sự vất vả, thiếu thốn nơi chốn núi rừng nên lần lượt bỏ ngài trở về thành phố hết, chỉ riêng còn lại có mỗi một mình Sư Cô là bao giờ và lúc nào cũng vậy, vẫn kiên tâm trì chí và quyết sống chết với thầy, không vì bị các chướng duyên và miệng đời thị phi mà trốn chạy như bao nhiêu người khác.
Là một Sư Cô có trình độ học thức cao, lại thêm đảm đang, tháo vát nên một tay người lo lắng hầu hết mọi chuyện trong ngoài, nhiều khi dùng thân của mình như là một cái mộc sống để “đỡ đạn” cho thầy, nhờ như vậy nên cố Hòa thượng mới được yên ổn để tịnh tu cho đến ngày viên tịch.
Có người hỏi Sư Cô rằng:
– Vì sao còn trẻ, đẹp (quá) như vậy mà Sư Cô lại chịu cam tâm chôn vùi tuổi xuân của mình trong lớp áo nâu sòng nơi chốn thiền môn, suốt đời nếm toàn mùi tương, chao, dưa muối. Trong khi các cô gái khác cùng lứa tuổi thì vẫn ở ngoài đời, vui cùng mộng ước cao sang, chồng con hạnh phúc?
Ni sư không trả lời thẳng vì lý do này, lý do kia mà người chỉ dùng vài đoạn thơ để bày tỏ sự cảm nghĩ về đời qua ý của mình như sau:
Xét phận hồng nhan nghĩ chạnh lòng,
Khi nhìn hoa héo giữa đêm đông.
Đang hồi thơm đẹp ong quanh quẩn,
Hương sắc tàn phai bướm lạnh lùng.
Thuở trước còn mơ tiên lẫn tục,
Bây giờ đã rõ sắc là không.
Mười hai bến nước trong hay đục,
Trong, đục do mình khó cậy mong!
Khó cậy mong nhờ bạn thủy chung,
Chi bằng năm tháng giữ thung dung.
Tiêu dao ngày tháng qua chân lý,
Tiếng kệ lời kinh ấy bạn lòng.
Lướt chiếc thuyền từ qua bể ái,
Ơn đền, nghĩa trả cửa huyền mong.
Ngự tòa sen báu nên danh phận,
Ấy đạo hồng nhan thoát cõi hồng.
Thiệt rất là hay, đáng khen, đáng trọng vậy thay!
Đó mới đáng là trượng phu nhi nữ vậy. Nhơn viết đến đây, Bảo Đăng chợt nhớ lại cổ thi cũng có bài thơ(với ý tương tự) như sau:
Hoa đào chớm nở dập dìu ong,
Đến khi hoa rụng hết trông ai nhìn!
Hỏi chúa hoa chẳng lời đáp lại,
Xuân ba phần còn mãi hay không?
Hay là nửa cuốn dòng sông,
Nửa rơi trên đất, chập chồng gió sương!
Do vì hiểu và thấy biết được bộ mặt thật của đời như vậy nên ni sư lúc nào cũng vẫn an nhiên và phấn khởi trong đường tu tập của mình, mặc dù là ở chốn “khỉ ho, cò gáy” mà lòng chẳng thấy chút đơn độc, sầu buồn nào hết.
Ni sư có bày tỏ tâm mình qua ý thơ sau:
Hạnh đẹp, nâu sòng đẹp,
Lòng an, cảnh lặng an.
Thềm hoa trăng bạc sáng,
Nhà tịnh gió hương lan.
Sắc, không đường lối tỏ,
Sen ngọc nở hồng nhan.
Quả đúng là một vị Sư Cô có đầy đủ chí khí và chân tài, thực học, rất xứng đáng được cố Hòa thượng tuyển chọn làm trưởng tử và là truyền nhân chấp chưởng y bát, môn hộ của ngài sau khi Đại sư viên tịch.
Trong biên bản (sau ngày cố Hòa thượng quy Tây xong) gởi cho Hòa thượng Thích Từ Mẫn, viện chủ Linh Sơn tự kiêm chánh đại diện cho giáo hội tại tỉnh Lâm Đồng, Hòa thượng Thích Pháp Lan có ghi mấy lời bình luận về ni sư trưởng tử Thích nữ Thanh Nguyệt như sau:
“Sách có câu: “Thiên văn bất như nhứt kiến”, ngàn lần nghe, không bằng một lần thấy. Tôi thấy ni sư Thanh Nguyệt là người ni chân tu, có trình độ, có hiếu hạnh, có uy tín rất nhiều.
Bạch Hòa thượng, đây là bất sai nhứt từ, đúng y như việc thấy, việc nghe khi trước”.
Cho đến nay, hơn một năm trôi qua sau ngày cố Hòa thượng Đại Ninh quy Tây, một mình ni sư trưởng tử(cùng với các môn đồ pháp quyến thân tín) vẫn kiên trì bảo toàn chánh pháp của ngài và chấp chưởng sư môn, thay quyền cố sư phụ giáo hóa các hàng môn đệ.
Phương Liên tịnh xứ đây tuy đã vĩnh viễn vắng bóng của cố Hòa thượng tôn sư, nhưng ni sư trưởng tử vẫn còn đây và trên đồi ngọn tháp “hoài vọng tôn sư” kia vẫn còn mang đầy đủ hình bóng cùng với kỷ niệm của ngài – trên đất Mỹ, cháu ruột của ngài là Đại Đức Bổn sư Thích Hải Quang vẫn mãi còn tiếp tục nối chí Đại sư, hoằng dương Tịnh độ và thầy sẽ phổ biến rộng rãi giáo pháp của ngài hơn nữa nơi quốc ngoại.
Thế nên danh tiếng của “PHƯƠNG LIÊN TỊNH XỨ MẬT TỊNH ĐẠO TRÀNG” và dòng pháp của cố Hòa thượng Đại Ninh tôn sư vẫn còn mãi mãi vang danh, không bao giờ đoạn tuyệt.
Bảo Đăng xin được dừng bút nơi đây.
Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo hằng luôn gia hộ cho ni sư trưởng tử – Phương Liên xứ chủ, Mật Tịnh đạo tràng Thích nữ Thanh Nguyệt hằng luôn được đầy đủ đạo lực để bảo tồn sự nghiệp đại pháp của sư ông và trong buổi tương lai khi quả mãn, công thành cũng sẽ được cùng hội ngộ với tôn sư nơi chín phẩm sen của miền An dưỡng.
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
Kính thưa Quý-vị !
Cách đây ít lâu, một hôm tôi sang vấn an sức khỏe thầy tôi bảo, đêm RẰM vừa rồi sau thời khóa, THẦY bỗng ngẫu cảm viết luôn một mạch 108 BÀI VỊNH, mỗi bài 4 câu, trong ấy nói lược qua thời gian NHẬP THẤT trải qua, lấy đề mục là ẨN TU.
Sau đó, thầy có chỉnh đốn lại đôi chút, nay nhân tiện đọc cho con nghe. Sau khi nghe xong, tôi xin phép ghi lại và muốn chuyển đọc cho các phật tử đến thăm nghe biết.
Thầy dạy: “ Điều ấy không nên vì người tu trong một lúc nào đó Tâm Thanh tịnh, bỗng nảy ra nhiều ý kiến cao siêu mới lạ nhưng phải liền gạt bỏ qua, nếu cứ ghi nhớ ý kiến hay ấy, tất Thành ra SỞ TRI CHƯỚNG, bởi Chân-Tâm là thể VÔ TRI LINH TRI, tuy không biết mà biết tất cả hoặc ngay khi trong lúc tâm thanh tịnh đó, hành giả có thể viết ra cả ngàn bài tụng một cách dễ dàng, song nếu chấp lấy danh từ cứ ưa viết mãi trong TÔNG MÔN gọi là thiền bịnh, giả lại cảnh giới người tu chỉ có người tu mới thấu đáo.”
Nên Thiền Quyển có câu:
“Gặp hàng kiếm khách nên trình kiếm,
chẳng phải thi nhân chứ nói thi.”
Nếu con đọc ra, sợ e kẻ nói một đằng người nghĩ một nẻo, rồi thành ra việc thị phi mà thôi. Tôi thưa, con thấy trong QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ ngài TÔNG BẢN khi ẩn trong núi có vịnh 100 bài thi gọi là “SƠN CƯ BÁCH VỊNH” việc ấy như thế nào?”
Thầy tôi đáp: So sánh sao được với TÔNG BẢN ĐẠI SƯ, ngài là một bậc đại ngộ đã vượt con đường muôn dặm về đến quê nhà, còn thầy thì chỉ mới tập tễnh đi một vài bước. Ngài ví như người sáng mắt thấy toàn thể con HƯƠNG TƯỢNG, còn thầy ví như người mù rờ VOI, nói ra dẽ lạc lầm.
Câu chuyện đến đó rồi cũng tạm trôi qua, tuy nhiên có 5 , 3 PHẬT TỬ đến viếng thăm Than Thở Đã lâu lắm rồi không gặp mặt HÒA THƯỢNG, lại không nghe được lời nhắc nhở, trong tình thế đáng thương ấy, tôi có lén thầy trích đọc ra một vài đoạn, để an ủi họ.
Nay gần tới ngày CHUNG THẤT của THÂN MẪU bổn sư, tôi lại cố gắng một lần thứ ba xin thưa thêm. Bạch thầy: Thầy nói cuộc đời của thầy là ẨN TU, ít hôm nữa là đến ngày chung thất cũng là ngày cuối cùng làm LỄ TRUY TIẾN bà về cõi Phật, con xin phép đọc mấy bài hôm trước cũng như thay lời tâm sự để GIÁC LINH bà thông cảm cảnh đời ẨN TU của thầy.
Thầy im lặng ý không muốn chấp nhận, nhưng cũng không nỡ Phủ Nhận lời xin của hàng đệ tử đã vì thân mẫu mình.
Tôi nghĩ thầy im lặng tức là tùy ý tùy duyên, nên hôm nay là cơ cảm để thầy có dịp tâm sự với Mẫu-Thân một lần sau rốt. Và đây xin đọc bài thứ nhất.
Tỳ-kheo-ni thích nữ THANH NGUYỆT
Pháp-hiệu PHƯƠNG LIÊN
1.- Ẩn tu nào phải cố xa đời !
Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi !
Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng
Bốn ân còn nặng nghĩa đền bồi.
NHƯ Ý : THẬT HIỀN đại-sư than, “ÁO NÃO TỪ THÂN ĐA NGHIỆP CHƯỚNG.” Buồn thương thân mình nhiều nghiệp chướng, đại-sư còn tự trách thế, hàng hậu học cũng nên tự kiểm lại.
4 TRỌNG ÂN
1) Ân Phật tổ
2) Ân Thầy bạn, Thiện tri thức
3) Ơn Cha mẹ dưỡng dục Sanh Thành
4) Ân đàn-việt và Chúng sanh hỗ trợ
…
100. -Ẩn tu Tổng-yếu Tịnh môn mầu
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm
LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.
NHƯ Ý : 3 Điểm TÍN NGUYỆN HẠNH với sự CHÍ THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-độ, Tuy nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.
Đạo NHO bảo:
“Phóng Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,
Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”
(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,
Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)
Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.
Thưa các Vị,
Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH.
101. -Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa
Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra
Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.
102. -Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới
Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.
103. -Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.
104. -Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô
Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ
Phật tử đến thăm như hỏi đạo
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.
105. -Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.
106. -Ẩn tu suối lặng bóng chim qua
Chim nước đều như tự tại hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!
107. -Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn
Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa
Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.
108. -Ẩn tu trì niệm tháng năm qua
Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ
Tin-tức ngày nay vừa thấy được
Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !
39. Đảnh-Thượng-Hóa-Phật Thủ Nhãn ấn pháp
Bồ-Ðà Dạ Bồ-Ðà Dạ [47]
Án-- phạ nhựt-rị ni,
phạ nhựt-lảm nghệ, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
34. Hiệp-Chưởng Thủ Nhãn Ấn Pháp
Tất Rị Tất Rị [44]
Án --bát nạp mạng, nhá lăng hất rị.
UM! BÚT RUM! HÙM!
38. Bất-Thối Kim-Luân Thủ Nhãn Ấn Pháp
Bồ-Đề Dạ Bồ-Đề Dạ [46]
Án-- thiết na di tả, tát-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
Thất Na Thất Na [37]
Án-- vỉ tát phổ ra, na ra các xoa,
phạ nhựt-ra, mạn trà lả, hồng phấn tra.
UM! BÚT RUM! HÙM!
42. Tổng-Nhiếp-Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp
Ma Bà Lỵ Thắng Yết Ra Dạ [74]
Ta-bà ha [75]
Đát nể dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã,
tát bà đốt sắc, tra ô hạ di dả, Sá-phạ hạ.
UM! BÚT RUM! HÙM!
HOÀI NIỆM
NI TRƯỞNG THƯỢNG HẢI HẠ TRIỀU ÂM VIÊN TỊCH
Kính niệm Sư Bà thọ chín tư,
Kính
ai ngày tối duyệt Kinh thư.
Kính
trọng Lăng Nghiêm thường dạy chúng
Kính
thương niệm Phật mệt không từ.
Tưởng nhớ cha Tây, mẹ Việt xưa.
Tưởng
ai nuôi lão bịnh không chừa.
Tưởng
người cao lớn luôn khiêm hạ,
Tưởng
kẻ gặp Tăng mãi dạ thưa.
Hải đăng đèn sáng chiếu Ni lưu,
Hải đức
tâm không dứt oán cừu,
Hải
chúng Ni giới giờ ly biệt
Hải
trí giác tỉnh tuyệt sầu ưu.
Triều dâng lên xuống biển không vơi,
Triều
Âm danh tiếng rạng với đời.
Triều
Ni Trưởng tịch chúng lạc lõng,
Triều
đăng thượng phẩm mới thảnh thơi.
Ni giới Bắc Nam quý hạnh đây,
Trưởng
dưỡng phước huệ đã đủ đầy.
Viên
thành tịnh nghiệp về An Dưỡng,
Tịch
chứng vô sanh chẳng muộn ngày.
Tăng
chúng và Phật tử Tổ Đình Hương Nghiêm Tịnh viện cầu nguyện Ni sư Trưởng sớm chứng vô sanh quả đăng Thượng phẩm.
Trụ trì Tổ Đình Tịnh viện Hương Nghiêm.
Ngày 27/6/ năm Quý Tỵ
LIÊN PHƯƠNG –
THÍCH TOẠI CHÂU.
Tiểu
sử Cố
(1920-2013)
Ni Trưởng pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ
Hòa, thế danh Nguyễn Thị Ni, sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông, nay thuộc thủ đô
Hà Nội.
Thân phụ là một công chức người Pháp, cụ ông Etienne Catallan.
Thân mẫu là một y sĩ người Việt, cụ bà Nguyễn Thị Đắc. Vì thế Sư Trưởng còn có
tên thế tục tiếng Pháp là Eugénie Catallan.
Thầy sanh trưởng trong gia đình nề nếp gia phong, được huân ướp
một đời sống đạo đức, lễ nghi của người châu Á. Kiến thức văn hóa, trí tuệ sâu
rộng từ trường học Tây phương. Thầy đã có một lối sống khuôn phép nhưng khoáng
đãng, lịch sự nhưng cương trực.
Lấy xong bằng tốt nghiệp Diplôme D’étude Primaire Suprieur Thầy đi
dạy học. Ngay khi còn tại gia, Thầy đã biểu lộ lòng từ bi. Ngày ngày dạy học,
ngoài thời giờ Thầy vào các bệnh viện, trại mồ côi, dưỡng lão để giúp đỡ an ủi
động viên những mảnh đời bất hạnh.
Cơ duyên được biết Phật pháp là do Sư cụ Thích Tuệ Nhuận. Bài
pháp đầu tiên được nghe Sư cụ giảng tại chùa Quán Sứ là kinh Lăng Nghiêm, phẩm
Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí niệm Phật. Lãnh hội được sự vi diệu
của Phật pháp đem lại niềm an vui cho mọi người. Sau đó, Thầy thường in những
cuốn kinh nhỏ phát cho các Phật tử tới chùa tụng kinh hàng ngày.
Quy y với Hòa-thượng Pháp chủ đương thời là ngài Thích Mật Ứng,
được Ngài đặt cho pháp danh là Hải Triều Âm.
Thầy sáng lập gia đình Phật tử, mở các hội trưởng lão, thanh
thiếu niên, nhi đồng ở Hà Nội, Hải Phòng. Ngoài ra Thầy còn viết bài cho tòa
báo Bồ Đề của Sư cụ Thích Tuệ Nhuận, dưới bút hiệu là Thích Nữ Cát Tường Lan.
Các bài pháp rất thực tế, đưa Phật pháp vào tư tưởng thanh thiếu niên trong
thời đại giao thoa giữa Nho giáo và Tây học ở những năm cuối của thập niên 40 –
50, thế kỷ 20.
Năm 29 tuổi, thâm ngộ lẽ vô thường, phước thiện thế gian không
thể đưa đến giải thoát. Thầy xuất gia với Hòa-thượng Thích Đức Nhuận, ở Hà Nội
(Người sau này là Đệ Nhất Pháp Chủ GHPGVN). Hòa-thượng cho y chỉ và thọ giới
với Hòa-thượng Ni Tịnh Uyển, chùa Thanh Xuân, làng Phùng Khoang, Hà Nội.
Đến năm 1952, vâng lời Hòa-thượng Bổn Sư di cư vào Nam. Nhập
chúng tại Ni trường Dược Sư, Gia Định, Sài Gòn. Vừa lo tu học, vừa hầu mẹ già
bị bệnh bán thân, vừa lãnh việc chuyên giảng dạy cho Phật tử. Thầy tinh trì
giới luật, nghe kinh Kim Cang lãnh ngộ được tông chỉ niệm Phật. Thầy tu quán Tứ
Niệm Xứ để khai tuệ giác tỉnh, sở đắc về bộ kinh Lăng Nghiêm để khai tri kiến
Phật.
Khoảng năm 1962, sau khi mẹ mất, vì muốn báo hiếu công ơn mẹ, Thầy
nhập thất 5 năm ở chùa Vạn Đức, Thủ Đức, Sài Gòn. Những mong nhập Niệm Phật tam
muội.
Năm 1968, Hòa-thượng Thích Thiền Tâm khai mở tông Tịnh-độ ở thôn
Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng. Mời Thầy về để cùng một số Ni chúng thành lập xã
Hoa Sen, noi gương Tổ Huệ Viễn. Nơi đây, Thầy nhập thất tại tịnh thất Linh
Quang, chuyên tâm niệm Phật.
Năm 1970, Hòa-thượng Thích Thanh Từ mở lớp tu thiền 3 năm ở
Thiền viện Chơn Không, Vũng Tàu. Thầy là một trong 10 vị khóa đầu được
Hòa-thượng chiêu sinh. Thầy theo khóa học thiền để hỗ trợ cho công hạnh tu
Tịnh-độ. Sau thời gian tu tập, Thầy ngộ được tôn chỉ “Tri vọng vọng tan, chính
là quán hạnh Tứ Niệm Xứ”.
Năm 1973, Thầy trở về Tịnh thất Linh Quang, Lâm Đồng nối tiếp
công phu tu niệm.
Nhưng từ hoài bi nguyện độ sanh không bỏ, Thầy bắt đầu độ chúng,
lúc đó chỉ có vài chục người. Đến nay đã thành lập 9 chùa Ni Liên, Linh Quang,
Liên Hoa, Viên Thông, Hương Sen, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Bát Nhã và Dược Sư 2. Đủ
các căn cơ, già trẻ, lớn bé cho đến người tàn tật, trẻ mồ côi Thầy đều đưa tay
tế độ, mong họ được kết duyên với Phật pháp. Phật tử quy y thì không biết bao
nhiêu mà kể.
Mặc dù giác biết chúng sanh huyễn có, vẫn dùng pháp huyễn để độ
chúng sanh. Ngày ngày lên lớp giảng dạy, từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều,
lời lẽ uyên bác, chỉ mặt phải, răn mặt trái. Nhắc đi nhắc lại, cặn kẽ từng lời,
mong sao cho các con thấm nhuần kinh pháp. Lời giảng dạy của Thầy ai nghe cũng
thấy đúng với tâm trạng của mình, hợp thời, hợp cơ, giản dị dễ hiểu, lại rất
thực tế.
Đối với đại chúng, Thầy khiêm cung, giản dị, từ hòa. Nhưng
nghiêm khắc đưa đại chúng vào khuôn khổ giới luật, nội quy. Sửa trị những xấu
ác, nhưng bao dung những lồi lầm chỉ cốt cho đại chúng thành những bậc pháp khí
trong Phật pháp. Thầy một lòng lo cho đại chúng, từ tinh thần đến vật chất, hy
sinh sức khỏe thời giờ, tận tình từ đời sống tạm thời đến rồi đi, tới đời sống
đạo vị lợi ích vĩnh viễn trong kiếp tương lai. Suốt ngày trọn đêm không giờ
phút nào Thầy ngơi nghỉ trong bổn phận tự giác giác tha.
Tấm gương vô ngã vị tha của Thầy, không lời lẽ nào kể hết được.
Hạnh đức của Thầy đã gieo vào tâm thức chúng con những ấn tượng khó phai. Lúc
Thầy ở Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, Sài Gòn, học chúng đổ về học pháp rất nhiều,
không đủ chỗ, Thầy sửa lại phòng tắm làm chỗ nghỉ cho mình, nhường phòng mình
làm chỗ ở cho đại chúng. Còn nhớ những ngày đông giá rét ở xứ lạnh cao nguyên,
ai ai cũng co ro lo tìm sự an ổn cho mình. Riêng Thầy, áo mền ấm áp nhường tất
cả cho các con, ráp những tấm vải thô vừa nặng vừa chẳng đủ ấm làm phần của
mình.
Thấy đàn hậu lai trí kém tuệ ít, Thầy toát yếu lại những bộ kinh
Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, luật Tỳ-kheo-ni v.v… lời văn giản
dị, xác thực để học chúng dễ nắm được yếu chỉ của kinh luật. Mắt đeo kính, dưới
ánh đèn dầu, Thầy miệt mài đọc sách dịch kinh. Từng bộ kinh hán văn dày cộm đầy
những chữ với bộ óc tuổi già thật mỏi nhọc, Thầy vẫn hết sức cố gắng cặm cụi
dịch sang việt ngữ để đàn hậu lai có sách học tập. Thầy đã biên dịch, biên
soạn, toát yếu hơn 100 đầu sách và in ấn không biết bao nhiêu mà kể. Bậc chân
tu liễu đạo thường ẩn danh nên mỗi một cuốn sách viết ra Thầy không để tên mình
bao giờ, mà lấy tên của các đệ tử đặt vào sách (sau này khi tái bản, chúng con
đã mạn phép ghi tên Tôn Sư vào sách). Ấn tống các kinh Di Đà, Phổ Môn, Dược Sư
gởi khắp Bắc Trung Nam, để các Phật tử có kinh tiếng Việt. Mang bệnh giựt cơ trên
đầu mấy chục năm nhưng chưa từng vì đó mà nghỉ ngơi. Năm 1983, vì muốn làm cuốn
Hai Cánh Nhà Ni cho các Tỳ-kheo-ni mới thọ giới nắm vững giới điều, Thầy đã
thức suốt cả tháng.
Một lòng tôn kính Phật Pháp Tăng, gặp bất cứ hình tượng Phật nào
Thầy đều thành kính đảnh lễ. Tận tình học pháp, nghiên cứu pháp, truyền bá giáo
pháp, cả đời Thầy nêu cao tấm gương vì pháp quên thân. Đối với Tăng Ni, Thầy
khiêm cung, kính trọng, dạy hàng đệ tử chúng con suốt đời phải thực hành Bát
Kính Pháp. Dạy chúng con nếp sống lục hòa, trên kính dưới nhường, lấy Giới Định
Tuệ làm sự nghiệp chính của mình.
Thầy thường răn nhắc chị em phải tinh tấn tu hành để đền ơn thí
chủ. Đời sống giản dị, tiết kiệm từng hạt gạo, tấm vải. Thường răn dạy chúng
con không được phung phí vật dụng Tam-bảo, phải biết yêu tiếc như giữ tròng con
mắt. Thầy kiệm đức kiệm phước trong từng hành động, 70 tuổi vẫn tự giặt áo,
giăng mùng, không phiền nhọc một người hầu hạ. Mãi đến 80 tuổi, Phật sự đa
đoan, tuổi già mỏi nhọc, Thầy mới cho hàng đệ tử chúng con trợ giúp. Đến khi
già lão, thân suy yếu lại bệnh nhưng chưa bao giờ Thầy hiện tướng mỏi nhọc buồn
phiền, gặp ai cũng nở nụ cười từ ái. Ai đến gần Thầy đều cảm nhận được sự mát
mẻ từ bi, tất cả bao phiền não đều tiêu tan.
Bởi vì thấu đạt được chân lý “nhất thiết chúng sanh giai hữu
Phật tánh”, nên con sâu cái kiến, hàm linh bão thức, các loài chúng sanh, đã có
duyên với Thầy đều được thừa hưởng ân đức Thầy ban bố, được thấm nhuần pháp vị.
Lòng từ bi của Thầy không chỉ nhân loại được hưởng mà thấm nhuần đến từng cỏ
cây, loài vật. Với chúng sanh, đói Thầy cho ăn, khát Thầy cho uống, rét Thầy
cho áo mặc, niệm Phật để nó kết duyên với Phật pháp từ đời này đến đời sau.
Thầy răn dạy chúng con “đó chính là những huynh đệ chúng ta từ kiếp trước, chỉ
vì một chút lỗi lầm phải đọa làm thân chó, nên các con phải tận tình thương
xót”.
Xếp đặt cho các con trong hiện tại đã đủ mọi bề khó khăn, lại
còn lo mai này, Thầy về cõi Phật, các con nương tựa vào đâu ? Thầy làm chùa,
xây dựng cho hậu lai nơi ăn chốn ở. Nhưng thế sự vô thường, không bền chắc, chỉ
có Phật pháp mới là nơi nương tựa vững vàng nhất. Thầy vì đàn hậu lai mở ra một
đường lối tu hành rõ ràng. Năm 1988, Thầy viết một bài Di Chúc, để lại cho đàn
hậu lai chúng con. Đó vừa là lời dặn dò, vừa là con đường tu hành của bản thân
Thầy và cũng là kim chỉ nam chỉ lối đưa đường cho đàn hậu lai chúng con trên
bước đường tu học.
Qua bao thăng trầm thế sự, Thầy vẫn như núi kia bất động trước
cảnh đời dâu bể, vẫn cúi xuống tận lực đùm bọc che chở, nuôi dưỡng thánh chủng
cho hàng đệ tử chúng con. Sức an định của Thầy như núi cao bất động trước phong
ba của tám gió. Trí tuệ của Thầy như trăng sáng chiếu soi, phá tan bao hắc ám
của đời sanh tử. Dù nói bao nhiêu cũng không đủ lời để tán dương hạnh đức Tôn
sư.
Năm 2009 ngày 6 tháng 7 âm lịch: Thầy để lại bút tích như sau:
Ký ca ký cóp
Đóng góp nên công
Nhẹ như lông Hồng
Bay về cực lạc
Hào quang sáng quắc
Vẫy gọi muôn phương
Cái bướm con mèo
Trời người muôn loại
Mau mau tỉnh giấc
Thoát xác vô minh
Giải nghiệp hữu tình
Lên đường giải thoát.
Bốn năm sau ngày Sư Trưởng để lại bút tích. Mùng 4 tháng 4 năm
Quý Tỵ (13/5/2013) là ngày Vía đức Văn Thù Bồ-tát, cũng là ngày Kỷ niệm xuất
gia lần thứ 64 của Thầy, một vầng hào quang rực rỡ xuất hiện trên đỉnh tháp
khoảng từ 8 đến 12 giờ trưa.
Trước ngày vãng sanh, Thầy cho biết đã nhìn thấy đức A Di Đà,
đức Văn Thù Bồ-tát,Phổ Hiền Bồ-tát cùng các thánh chúng đến đón.
11 giờ 56 phút, ngày 31 tháng 7 năm 2013 (nhằm ngày 24 tháng 6
năm Quý Tỵ): Thầy thu thần thị tịch, hoa sen trắng thẳng vãng trời Tây. Thượng
thọ 94 tuế thế, 60 hạ lạp.
Thí chủ xây Kim Quang tháp cúng dường tại Ni viện Dược Sư, Đức
Trọng, Lâm Đồng, nơi an nghỉ cuối cùng của nhục thân trần thế.
Thần thức lên miền An Dưỡng,
Nghiệp chướng bỏ lại trần lao.
Hoa khai chín phẩm sen vàng,
Phật rủ nhất thừa thọ ký.
Trong suốt những ngày tang lễ đều có vầng hào quang xuất hiện
trên đỉnh tháp, dưới sự chứng kiến của những người tham dự.
Liên tiếp các ngày tuần thất cho đến tuần chung thất, cũng đều
có hào quang xuất hiện và mây ngũ sắc trên bầu trời.
Cố NI TRƯỞNG đã thị hiện vô thường, để lại niềm nuối tiếc khôn
nguôi cho hàng trăm, hàng ngàn đệ tử xuất gia và tại gia trên khắp thế giới.
Chúng con mạo muội viết lên ít dòng để nêu lên một phần nào công
hạnh của Tôn sư, mong rằng những người hữu duyên được mông ân pháp vũ.
Nam mô Kim Quang tháp, Tào Động phái, pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ Hòa, Cố NI TRƯỞNG giác linh.
Ngày 7 tháng 7
năm 2014
Chùa Dược Sư
chúng con
trân trọng kính
ghi
đền ơn pháp nhũ
VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Rực rỡ Như Lai ánh sắc vàng
Diêm phù đàn chiếu bóng phù quang
Mắt xanh bốn biển phân minh nét
Lông trắng năm non uyển chuyển làn.
Chân lông hoá Phật vô biên số
Bồ Tát bao quang ức kể ngàn
Thâu nhiếp chúng sanh siêng niệm Phật
Diệt trừ nghiệp chướng sạch tiêu tan.
QUÁN ÂM ĐẠI SĨ
Đại sĩ trang nghiêm sắc tử kim
Đầu đội thiên quang ẩn báu tìm
Viên quang hoá Phật cao muôn trượng
Lại hoá bồ Tát chiếu khắp miền.
Cánh tay muôn ức hiện trang nghiêm
Anh lạc chiếu soi vẻ dịu hiền
Tay báu ngàn tia dìu sanh chúng
Thiên bức luân kia ảnh hiện điềm
Bồ Tát dở chân luân tướng hiện
Quang minh lấn át ức chư Thiên
Lúc bước chân đi kim cương rải
Vô số ma ni khắp mặt tiền
Cứu khổ từ bi pháp vô duyên
Giọt nước nhành dương tắt lửa phiền
Hoá thân hình nữ ngàn muôn tướng
Bể khổ mênh mông cứu đắm thuyền.
THẾ CHÍ ĐẠI SĨ
Quang minh Thế Chí thật vô biên
Ánh sáng huệ soi dứt khổ triền
Nhục kế bảo bình an Phật sự
Bảo đài hoa hiện tịnh quốc liên.
Bồ Tát bước đi mười phương động
Trăm ức hoa thơm rưới khắp liền
Khi ngồi đại giới đều rung chuyển
Trăm ức bảo đài chiếu cảnh thiên.
Phù trợ Di Đà chung tiếp dẫn
Đưa tay báu đẹp thoả ước nguyền
Cúi đầu đảnh lễ chư Đại sĩ
Xoa dịu lòng trần kẻ có duyên.
CHƯ THƯỢNG THIỆN NHƠN
Thánh chúng hà sa số rất đông
Thuần do tịnh đức sạch mê lòng
Thọ số vô cùng không tính kể
Quang minh vô lượng suốt hằng thông.
Sáng sớm đem hoa cúng mười phương
Trở về nghe pháp buổi mai thường
Lục thông tự chứng không cần luyện
Bồ Tát Thanh Văn chẳng tính đương
Không già bệnh khổ ghét chẳng thương
An lạc thân tâm thật khó lường
Chứng quả vô sanh ngôi bất thối
Phân thân hoá độ khắp cõi đường.
THƯỢNG PHẨM THƯỢNG SANH
Thượng phẩm thượng sanh cảm ứng sao
Đại phát ba tâm mới dự vào
Trì tụng Đại thừa ngộ nhất nghĩa
Khuyên chúng tu hành ấy phẩm cao.
Tu hành lục niệm phát nguyện minh
Giữ giới xót thương chúng hữu tình
Lâm chung liền thấy Di Đà Phật
Thế Chí Quán Âm đến tiếp nghinh.
Hà sa thánh chúng cả chư Thiên
Đài báu kim cang trước mặt tiền
Khoảng khảy móng tay về An Dưỡng
Chứng qua vô sanh bất thối liền.
THƯỢNG PHẨM TRUNG SANH
Thượng phẩm trung sanh liễu nghĩa kinh
Tin sâu nhân quả lý phân minh
Đệ nhất nghĩa để tâm không động
Không huỷ Đại thừa mới được sinh.
Lâm chung Tam Thánh hiện phân minh
Đại chúng vô biên đến tiếp nghinh
Một ngàn hoa Phật đưa tay dắt
Ngôi tử kim đài báu đẹp xinh.
Trải cách một đêm Liên hoa nở
Được nghe pháp diệu bởi Phật đà
Bảy ngày liền đắc không thối chuyển
Vô sanh một kiếp mới được mà.
THƯỢNG PHẨM HẠ SANH
Nhân quả tuy tin chửa được sâu
Không báng Đại thừa chỉ mong cầu
Phát tâm nguyện chứng vô thượng đạo
Thành tựu bi tâm thoả chí đầu.
Lâm chung Tam Thánh nối tiếp nhau
Hoá Phật năm trăm hiện đến đầu
Sen vàng khép lại về An Dưỡng
Bảy bữa hoa khai thấy Phật mau.
Hai mốt ngày sau thấy Phật thường
Nghe pháp nhiệm mầu cúng mười phương
Trải ba tiểu kiếp đắc sơ địa
Bách pháp minh môn ngộ rõ tường.
TRUNG PHẨM THƯỢNG SANH
Ngũ giới bát quan chẳng lỗi lầm
Không gây ngũ nghịch chẳng trược tâm
Đem căn lành ấy hồi An Dưỡng
Lâm chung từ phụ hiện lại lâm.
Thánh chúng đồng nghinh phóng Kim quang
Diễn bày diệu pháp thoát mê đàng
Quỳ gối chắp tay đang lễ Phật
Chưa ngước mặt lên đến Liên bang
Hoa sen vừa nở nghe Tứ đế
Cùng các âm thanh diễn pháp mầu
Chứng liền La Hán lục thông đủ
Bát giải tam minh thảy nhiếp thâu.
TRUNG PHẨM TRUNG SANH
Giữ Bát quan trai hoặc Sa Di
Tỳ kheo giới hạnh đủ oai nghi
Một ngày giới thể toàn thanh tịnh
Hồi hướng vãng sanh đến Liên Trì.
Lâm chung từ phụ phóng kim quang
Quyến thuộc thiện nhơn khắp đạo tràng
Bấy giờ Phật thánh đồng khen ngợi
Ngồi bảo đài sen đến liên bang.
Bảy ngày sen nở nghe pháp diệu
Sanh lòng hoan hỷ chứng Đà Hoàn
Nửa kiếp về sau đắc La Hán
Giải thoát luân hồi vĩnh viễn an.
TRUNG PHẨM HẠ SANH
Hiếu dưỡng mẹ cha hạnh từ nhân
Làm lành bố thí kẻ cô bần
Lâm chung may gặp thiện tri thức
Giảng sự an vui Cực Lạc an.
Nghe rồi hoan hỷ niệm Phật xong
Thần thức sanh Tây biệt cõi hồng
Khoảng tay co duỗi như lực sĩ
Liền tọa hoa sen sáng tịnh trong.
Bảy ngày thấy được Đức Quán Âm
Thế Chí thuyết kinh giản ngộ thầm
Đắc quả Đà Hoàn sau một kiếp
Mới thành La Hán lạc thanh tâm.
HẠ PHẨM THƯỢNG SANH
Tạo nhiều nghiệp ác không hổ thẹn
Nghe được mười hai danh Đại Thừa
Diệt trừ nghiệp ác trong ngàn kiếp
Niệm Phật chí thành chẳng sót thưa.
Hoá Phật cùng với hoá Quán Âm
Thế Chí hoá thân chẳng thấy lầm
Tiêu tội năm mươi ức kiếp sạch
Thẳng đến Tây phương giải thoát thâm.
Bốn chín ngày sau nở Liên hoa
Thế Chí Quán Âm hiện trước toà
Được nghe kinh điển mười hai loại
Sơ địa mười hai kiếp đắc mà.
HẠ PHẨM TRUNG SANH
Ngũ giới Tỳ kheo phạm quá nhiều
Trộm của Già Lam quả tự chiêu
Bất tịnh thuyết pháp lòng không thẹn
Lâm chung tuớng ngục hiện biết nhiều.
Gặp tri thức giảng Phật oai thần
Nghe rồi tin trọng cảm từ thân
Diệt tan tám mươi ức kiếp tội
Lửa dữ hóa thành hoa báu ân.
Trên hoa hóa Phật hiện tại tiền
Sáu kiếp về sau nở bảo liên
Quán Âm Thế Chí Diệu âm giảng
Vô thượng đạo mầu phát dõng kiên.
HẠ PHẨM HẠ SANH
Ngũ nghịch thập ác chẳng tạo lành
Địa ngục ác đạo phải thường sanh
Lâm chung may gặp thiện tri thức
Khuyên niệm Di Đà đủ mười danh.
Chí thành niệm Phật tận thân tâm
Sám hối nghiệp xưa giảm tội dần
Tắt hơi được thấy sen vàng nở
An Dưỡng được về bởi Phật ân.
Mười hai đại kiếp nở sen hoa
Thế Chí Quán Âm hiện trước toà
Giảng về thật tướng ly diệt tội
Diệu giác Bồ Đề phát nguyện xa.
VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Quang, thọ khó suy
lường,
Sáng lặng khắp mười
phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống
lâu A tăng kỳ.
A-Di-Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang
nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương
hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên nay chúng con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
NAM MÔ LIÊN TRÌ HẢI HỘI PHẬT BỒ TÁT (3 lần)
BẠT NHỨT-THIẾT NGHIỆP-CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH-ĐỘ ĐÀ-RA-NI
NAM-MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
(3 lần... hoặc 108 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(3 lần... hoặc 108 lần)
Câu: “UM! BÚT RUM! HÙM!” là chân ngôn “Nhứt Tự chuyển luân”, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chơn ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu.
HỒI HƯỚNG
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
CHUNG
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
Có
kẻ lại nghi rằng: Cảnh Cực Lạc mầu đẹp trang nghiêm vô lượng, chẳng phải dùng
ít nhân duyên căn lành phước đức mà được sanh về. Nhìn gẫm lại mình, căn lành
phước đức còn sơ bạc, nghiệp chướng lại nhiều, mong gì đời này được duyên tốt
vãng sanh?
- Xin kính khuyên quý
vị ngàn muôn lần chớ nên nghi như thế. Bởi khi các vị lần chuỗi niệm Phật được,
là căn lành phước đức đã sâu dày rồi. Thử nghĩ lại xem, trên thế gian này biết
bao nhiêu kẻ không nghe được danh hiệu Phật? Biết bao nhiêu người tuy nghe hồng
danh đức A Di Đà, nhưng mãi đoạt lợi tranh danh, đeo đuổi theo các điều trần
nhiễm, không chịu niệm Phật? Nay các vị đã được nghe Phật pháp và chí tâm niệm
Phật, há không phải là có căn lành phước đức lớn đó ư? Trong Kinh Vô Lượng Thọ,
Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: "Nếu có chúng sanh nào nghe danh hiệu đức Phật
kia, vui mừng khấp khởi, cho đến một niệm, nên biết kẻ ấy được lợi lớn, đã đầy
đủ phước đức vô thượng." Lời này đủ chứng minh: biết niệm Phật tức là đã
có nhiều phước đức căn lành rồi. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có dẫn sự tích
những người phạm tội cực ác như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung và loài
súc sanh như chim bát kha, anh võ, chí tâm niệm Phật đều được vãng sanh. Phước
đức căn lành của quý vị đã vượt xa hơn những người ác và loại súc sanh kia. Vậy
cần chi phải e ngại là ngay trong đời này không được sanh về Cực Lạc!
TRƯƠNG THIỆN HÒA
Trương Thiện Hòa, người đời Đường, chuyên nghề giết
trâu bò bán thịt. Khi sắp chết, ông thấy loài thú ấy kéo đến đầy nhà, nói tiếng
người rằng: “Mi đã giết chúng ta, hôm nay phải đền tội!” Thiện Hòa kinh hãi, vội
gọi vợ mau tới chùa gần bên, thỉnh chư tăng hộ trợ.
Giây phút, một vị tăng đến, bảo rằng: “Kinh nói: Nếu có chúng sanh nào tạo nghiệp chẳng lành, sắp đọa ác đạo, nên chí tâm niệm A Di Đà Phật mười hơi. Như thế, trong mỗi câu hồng danh sẽ trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sống chết, liền được sanh về thế giới Cực Lạc!” Thiện Hòa nói: “Tướng hỏa xa ở địa ngục đã hiện tới rất gấp! Mau đem hương lại đây?” Rồi không kịp bưng lấy lư hương, sảng sốt tay trái bốc than lửa, tay mặt cầm hương đốt, xây mặt về Tây lớn tiếng niệm Phật. Trương vừa niệm hơn mười câu, bỗng reo lên nói: “Đức Phật A Di Đà hiện đến, đã trao tòa sen báu cho tôi!” Nói xong, liền qua đời.
HÙNG TUẤN
Sư Hùng Tuấn, họ Châu, người Thành Đô, giảng thuyết
hay, nhưng không giới hạnh. Sau ông hoàn tục theo quân ngũ, rồi cạo tóc trở lại
làm tăng. Xét bổn phận mình, sư cũng biết hổ thẹn ăn năn, nên thường niệm Phật.
Trong niên hiệu Đại Lịch đời Đường, Hùng Tuấn đau bịnh
chết ngất, thần hồn xuống âm phủ. Diêm chúa quở trách, sai quỉ áp giải vào địa
ngục. Sư kêu to lên rằng: “Trong Quán kinh nói: kẻ tạo tội ngũ nghịch, khi sắp
chết niệm Phật mười niệm cũng được vãng sanh. Tôi tuy tạo tội, song không phạm
ngũ nghịch, cứ theo công quả niệm Phật, đáng được sanh về Tịnh độ. Nếu chẳng thế,
thì chư Phật trong ba đời đều thành vọng ngữ!” Nói xong chắp tay niệm Phật, bỗng
thấy bảo đài ánh sáng hiện giữa hư không, Diêm chúa liền tha cho về để tiếp tục
tu niệm.
Sau khi sống lại, Hùng Tuấn liền vào Tây Sơn chuyên
tâm trì niệm. Được bốn năm, một hôm sư từ biệt đại chúng, ngồi chắp tay niệm Phật
mà vãng sanh.
DUY CUNG
Đời Đường, sư Duy Cung người ờ Kinh Châu, giới hạnh
kém, thường uống rượu đánh bạc. Lúc rảnh cũng tụng niệm, hồi hướng cầu về An Dưỡng.
Trong chùa có sư Linh Quy thường a dua bắt trước theo. Hàng lân lý thấy thế, đặt
lời hát rằng: “Duy Cung tạo nghiệp dữ. Linh Quy là bạn lữ. Địa ngục muôn từng
vào. Đừng trách chi quỉ sứ!”
Duy Cung nghe được, nói: “Mỗ tuy tạo tội, song nương
nhờ Phật lực mười niệm vãng sanh, há lại đọa ác đạo ư?” Một hôm sư đau bịnh,
Linh Quy có việc ra khỏi chùa, thấy hai thiếu niên, một vị tay cầm nhạc khí. Hỏi
từ đâu đến, đáp rằng: “Chúng ta từ Tây phương tới đón rước Cung thượng nhơn!” Vị
kia lấy trong áo ra một hoa sen, cánh hoa khép mở buông tỏa ánh sáng lạ. Cả hai
hướng về chùa rảo bước.
Linh Quy đứng bồi hồi suy nghĩ, rồi vội vã trở lại chùa.
Vừa đến cửa đã nghe tin Duy Cung mãn phần. Nhân đó sư cảm ngộ sám hối, chí thiết
tu hành, sau thành một bậc danh đức.
CHIM ANH VÕ
Đời Đường, nhà họ Bùi ở Hà Đông có nuôi một con Anh
võ. Vì trong kinh A Di Đà có nói đến loại chim nầy, nên Bùi thị thường dạy nó
niệm Phật và phép tu Lục trai. Đến ngày trai kỳ, nếu quá ngọ có ai đem thức ăn
đến, suốt buổi chim không ngó tới. Có kẻ bảo nó khi niệm Phật, phải từ nơi “có
niệm” đến chỗ “không niệm”, thì chim ngước đầu dương cánh dường như nhận thức.
Đến sau thấy nó thường im lặng, có kẻ nói đùa: Anh võ
không còn niệm Phật nữa, chim liền phát thanh xướng: Nam mô A Di Đà Phật. Khi
mùa hè gió mát, lúc đêm vắng trăng trong, Anh võ thường cất giọng cao thấp hòa
nhã, thanh thao như cung đàn tiếng sáo, niệm Phật liên tục không dứt. Mọi người
nghe thấy đều khen ngợi và phát tâm cảm ngộ.
Tháng bảy, niên hiệu Trinh Ngươn, thứ mười chín, chim
có vẻ tiều tụy ủ rũ. Bùi thị đã nuôi dưỡng quen, biết nó sắp chết, liền cầm
khánh ra và bảo rằng: “phải chăng con sắp muốn về Tây phương? Vậy con hãy giữ
chánh niệm, nương theo tiếng khánh mà niệm Phật!” Nói xong, liền đánh khánh niệm
Nam mô A Di Đà Phật, Anh võ cũng niệm theo. Được một lát, chim xếp cánh đứng
yên, an lành mà vãng sanh. Sau khi thiêu hóa xác nó, Bùi thị bới tro kiểm lại,
được hơn mười hột Xá lợi. Quan Tiết đại sứ Vi Cao có viết truyện ký về chim Anh
võ này.
Đời nhà Minh, một thổ dân ở Lãnh Nam cũng có
nuôi con chim Anh võ trắng, thường dạy nó tụng đọc. Mỗi buổi sáng sớm, chim đều
tụng Bạch y thần chú, rồi kế tiếp niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm. Nó cũng đọc thuộc
bài Quy Khứ Lai Từ, phú Xích Bích, và nhiều thi hay của Lý Bạch. Nếu thời khóa
sớm mai chưa xong, dù có ai đem thi văn ra dạy bảo, chim cứ tiếp tục trì niệm
không nghe theo. Sau Anh võ cũng niệm Quán Âm rồi thoát hóa.
CHIM CÙ CÁP
Trong niên
hiệu Nguyên Hựu đời Tống, một người quận Trường Sa có nuôi con chim Cù cáp (một
loại giống như chim Cu, Bồ câu), và đặt tên nó là Bát Bát Nhi. Một hôm ngẫu
nhiên nghe vị tăng niệm Phật, chim liền ứng thanh niệm theo. Nhà chủ liền đem
nó tặng cho tăng sĩ ấy. Về chùa, chim niệm Phật từ sáng đến tối không dứt. Lâu
ngày, Cù cáp chết, vị tăng đem xác nó chôn sau chùa. Vài hôm, nơi chỗ chôn có một
cành hoa sen mọc lên. Bới đất tìm, thấy cọng sen phát xuất từ nơi mỏ chim. Một
văn nhơn làm bài thi khen ngợi việc ấy rằng:
Có một linh cầm
Bát Bát Nhi
Biết theo tăng dạy, niệm A Di
Chết chôn nơi đất sen lành mọc
Nghe chuyện người đời cũng nghĩ
suy…!
Một vị tăng nơi chùa chánh Đẳng tại Hoàng Nham ở núi
Thiên Thai, cũng có nuôi một con Cù cáp. Mỗi ngày vào thời khóa tụng, chim đều
tùy theo chư tăng niệm Phật. Một hôm nó đứng chết trong lồng, vị tăng đem xác
ra đào đất mà chôn. Vài ngày sau, từ nơi mỏ chim mọc lên một cành hoa sen màu
tím vượt cao khỏi mặt đất. Đại Trí Luật sư làm bài kệ khen ngợi chuyện đó,
trong ấy có hai câu:
Lòng son đứng hóa âu thường sự
Sen tím mọc lên mới diệu kỳ!
Comments
Post a Comment