PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI
PHỔ THANH TỊNH CHÂN NGÔN
ÁN ! TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐÀ TA PHẠ,
ĐẠT MẠ TA PHẠ BÀ PHẠ THUẬT ĐỘ HÁM.
UM ! LAM LAM LAM.
(7 lần)
KỆ TÁN
Kính lễ Thích-Ca
Đại-Điều-Ngự
Tiếp-dẫn Tây-phương Tam-Thánh-Tôn
Mười-phương tám mươi tám cu-chi
Hằng-sa chư Phật đều tuyên thuyết
Thanh-Tịnh Chư-Thú Vô-Cấu-Quang
Phật-Đảnh Tôn-Thắng môn thần diệu
Hay trừ tất cả các tội chướng
Xuất-sanh phước-trí rộng vô biên
Độ thoát ba cõi cùng sáu đường
Khiến được tuỳ tâm lên bỉ-ngạn
Nay con chí thành xin thọ trì
Nguyện thoát Ta-Bà sanh Cực-Lạc.
Nam mô Phật-Đảnh Tôn-Thắng Hội-Thượng-Phật Bồ-Tát . (3 lần)
Phật-Đảnh
Tôn-Thắng Đà-Ra-Ni
Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !
Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.
Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà da, suýt đà da. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.
Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.
Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá da, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần... hoặc 108 lần)
LIÊN TỤC TRONG VÒNG 7 NGÀY , ĐỂ TRỪ TẤT CẢ "KHẨU NGHIỆP" ĐỐI VỚI "CHA MẸ", CHƯ TĂNG...LẠI CŨNG ĐỐNG CỬA TẤT CẢ "ÁC-ĐẠO", MỞ ĐƯỜNG NHƠN, THIÊN, NIẾT BÀN CHO NHỨT THIẾT CHÚNG SANH.
LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY, THÌ CÓ THỂ "TRUYỀN-BÁ LƯU THÔNG" BỘ KINH NẦY KHẮP PHÁP GIỚI CHÚNG-SANH.
XƯNG TÁN
Phật-Đảnh Tôn-Thắng
Công-đức Hằng-sa
Phá không ác đạo cảnh Diêm-la
Rải rác Mạn-đà-la
Độ thoát Ta-Bà
Về cõi thắng Liên-Hoa.
Bát-Thập Bát-Cu-Chi Hằng-Hà-Sa Chư
Phật. (3 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A-Di-Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên nay chúng con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
NAM MÔ LIÊN TRÌ HẢI HỘI PHẬT BỒ TÁT (3 lần)
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần)
HỒI HƯỚNG
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
Chuyên tụng PHẬT-ĐẢNH TÔN-THẮNG ĐÀ-RA-NI cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút-giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
LỜI SAU CÙNG
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, đời Đường có quan thị ngự sử Võ Triệt thường trì tụng, sau nghe bạn đồng liêu là Tưởng Hình cũng thọ trì, nhưng văn cú và ngôn âm phần lớn đều sai khác; hỏi ra quan Thị Ngự Sử Tưởng Hình thọ học với ông Vương Khai Sĩ, và Vương Khai Sĩ lại được ngài Kim Cang Trí Tam Tạng truyền pháp. Trong khi truyền thọ ngài bảo:
"- Ở Tây Vức cũng ít có bản này. Ta đem theo Phạn bản đến đây, nên mật truyền lại cho ông".
Trong niên hiệu Khai Nguyên, có vị cư sĩ tinh tu ở non Ngũ Đài, người thường gọi là Vương Sơn Nhơn, cũng trì tụng chú này. Sau vì cầu siêu cho cha, ông tụng chú đến vài mươi muôn biến, cầu xin được biết nghiệp báo lành dữ và chỗ sanh của phụ thân. Nhưng kết cuộc không thấy chi, ông thối tâm muốn ra khỏi núi. Bỗng gặp một lão nhơn đón lại, bảo:
"Hiền giả tụng trì thật là cần mẫn, nhưng vì cách Phật lâu xa, văn cú thất lạc, thiếu sót nhiều. Nên không mau được ứng nghiệm. Nay gặp nhau đây, tôi xin truyền lại toàn bản của thần chú".
Vương Sơn Nhơn mời về đảnh lễ và thọ pháp. Lão nhơn dạy:
"Hiền giả tụng chú bản này độ một ngàn biến sẽ thấy hiệu lực!".
Cư sĩ trì niệm y theo lời. Vài hôm sau lúc ban đêm, bỗng nghe tiếng ngọc hoàn bội khua thanh thao, giọng tiêu cầm dìu dặt, lần lần giáng xuống trước sân nhà, cư sĩ kinh lạ bước ra xem, thấy mấy mươi thiên nhơn vây quanh ủng hộ một vị thiên tiên tướng mạo siêu phàm đi đến. Vị thiên tiên hỏi:
"-Người biết ta chăng?"
Cư sĩ thưa:
"-Kẻ dung phàm này mới được hân hạnh diện kiến!".
Thiên tiên nói:
"-Ta là phụ thân của người, năm rồi người trì tụng Tôn Thắng đà ra ni, ta được nhờ phước lực sanh lên cõi trời. Mấy hôm nay, y phước lại tăng gấp bội hơn trước, ta được làm vua trong hàng thiên tiên. Bản chú ngươi vừa trì tụng công hiệu thật không thể nghĩ bàn!"
Nói xong, tất cả đồng bay về thượng giới, cư sĩ vui mừng, cúi lạy tiễn đưa. Từ đó về sau càng thêm tinh tấn.
Cũng vào thời đó, tại Đông Đô có ông Vương Thiếu Phủ tụng chú Tôn Thắng theo bản của ngài Phật Đà Ba Lỵ đã vài muôn biến, một đêm, ông mộng thấy vị Phạn tăng đi đến bảo: "Nhơn giả tụng niệm rất tinh thành, nhưng tiếc vì chú văn còn thiếu, nên công hiệu kém!"
Thiếu Phủ đảnh lễ cầu thỉnh bản chú văn đầy đủ. Phạm tăng từ bi chấp thuận, khẩu truyền từng câu chân ngôn. Sau khi đã thông thuộc tất cả, ông bái tạ đưa vị Phạm tăng ra khỏi cửa, nhìn qua trời sáng như ban ngày. Thiếu Phủ trở vào nhà thấy tôi tớ còn đang nằm ngủ.
Vừa lúc ông chợt tỉnh giấc, vội gọi kẻ đồng bộc trách bảo trời đã sáng sao chưa thức dậy?
Chúng đáp rằng mới vừa nửa đêm. Lúc ấy ánh sáng bỗng tắt, trở lại đêm tối như cũ. Thiếu Phủ nhớ cơn thần mộng, lấy làm lạ, nhắm mắt tụng thần chú mấy biến thấy vẫn thông suốt. Từ đó, ông y theo khẩu truyền của vị Phạm tăng mà thọ trì.
Trong niên hiệu Thiên Bảo năm đầu, Thiếu Phủ đang nằm nơi tư thất, chợt tắt hơi. Vì nơi ngực còn ấm, người nhà không dám tẫn liệm. Đến 7 hôm sau, ông bỗng sống lại. Lúc ấy, kẻ háo sự trong thành bảo nhau đến hỏi về duyên cớ tái sanh. Tiếng đồn lan ra, Vưong Khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn lúc ấy ở Đông Đô không quen biết nhau, cũng đồng đến thăm viếng. Trước mặt các quan khách, Vương Thiếu Phủ trần thuật như sau:
“- Tôi vừa nằm nghỉ, chợt hôn mê, thấy có 2 sứ giả đến dẫn đem đi. Được vài mươi dặm, đến một gốc đại thọ, 2 sứ giả dùng lại tạm nghỉ, tôi cũng ngồi xuống theo. Bỗng nhớ tới chú Tôn Thắng, tôi liền nhắm mắt tụng luôn 21 biến. Lúc mở mắt nhìn quanh, không thấy 2 sứ giả đâu cả.
Giây lát, có 4 vị khác đi đến quỳ thưa rằng: "Không biết ngài tu theo diệu pháp nào, khiến cho 2 sứ giả dẫn độ đều được sanh lên cõi trời?" Tôi đáp: "Tệ nhơn chỉ tụng Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni".
Bốn vị ấy cầu thỉnh:
"Xin ngài vì chúng đệ tử tụng trì, cứu vớt cho khỏi vòng khổ nạn!" Tôi cũng nhắm mắt tụng 21 biến, lúc mở mắt ra, lại không thấy bốn vị đó.
Khoảnh khắc giữa hư không, có tiếng binh đao, một vị thần mặc tử bào, mang giáp trụ, quân thị vệ đông đảo, đến trước quỳ thưa rằng: "Tôi là thần Ngũ Đạo Minh Ty, địa vị tuy tôn quý, nhưng vẫn còn nhiếp về thần đạo. Sáu vị kia nhờ pháp lực của ngài, đều được sanh lên cõi trời.
Xin mời ngài hạ cố đến tệ cư trì tụng, khiến cho đệ tử và chúng sanh nơi đó được nhờ phước ấm, đồng sanh lên thiên giới".
Theo vị thần, tôi đi đến một khu thành quách to rộng, chu vi ước độ vài mươi dặm. Trong thành có rất đông tội nhơn, mang gông xiềng họp lại nơi sân rộng trước cung điện, có lẽ đang chờ khảo tra xử phạt. Vị thần dạy quân bày tòa cao đẹp, làm lễ thỉnh tôi lên ngồi, còn chính mình quỳ nơi trước, phía dưới, chắp tay lắng nghe.
Tôi liền định tâm chí thành tụng đủ 49 biến, khi mở mắt ra nhìn bốn bề không thấy một ai cả, chỉ có gông xiềng đứt nát nằm ngổn ngang chung quanh. Còn đang kinh ngạc, bỗng có 4 sứ giả đến bảo tôi rằng:
"Đức vua dạy mời ông đi nơi khác, vì ông đã làm rối loạn, phá hư trật tự chốn minh ty của chúng tôi". Kế đó họ đưa tôi vào một hang núi, và tôi được hoàn hồn sống lại.
Sự tái sanh này chắc cũng nhờ oai lực không thể nghĩ bàn của Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni.”
Vương khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn nghe nói, mỗi người đều đọc bản chú của mình để so sánh với bản chú của Vương Thiếu Phủ thì thấy đồng nhau như một bản. Cả ba đều vui mừng, cùng nhau khánh hạ. Vương sơn Nhơn nói:
"Bản của tôi thọ giáo nơi vị thánh công nơi non Ngũ Đài".
Vương Thiếu Phủ bảo:
"Tôi thọ học bản chú này với vị thần tăng".
Vương Khai Sĩ nói:
"Còn bản của tôi được thọ truyền bởi ngài Kim Cang Trí Tam Tạng, hiện Phạm văn bối diệp hiện còn lưu trữ".
Ai nấy nghe nói đều kinh ngạc, khen là chuyện hy hữu.
Ngoài ra lại còn chuyện ông Trương Diệc trì chú Tôn Thắng cứu được cha mẹ khỏi khổ địa ngục, sanh lên cõi trời. Chuyện ông Trương Thừa Phước trì chú này khi bị minh ty đến bắt, đã không thọ khổ mà còn cứu vớt được tội nhơn ở cõi âm được siêu thoát. Truyện vài vị tăng trì chú Tôn Thắng cảm được xá lợi hiện và rất nhiều cảnh giới lành.
Những chuyện trên đây có ghi chép trong tập Gia Cú Linh Nghiệm Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Ký. Sau tập này có chép bản văn đầy đủ của chú ấy, gọi là Cụ Túc Bản. Bút giả y theo Cụ Túc Bản so sánh với phiên âm của các bản khác, và tra cứu từ điển để dịch ra Việt ngữ cho đúng với Phạm âm.
Riêng bản dịch của Pháp-Thiên Tam-Tạng nhan đề: Tối-Thắng
Phật-Đảnh Đà-Ra-Ni so với Cụ túc Bản văn cú đã đồng lại có phần rộng hơn. Sau khi hiệu kiểm, bút giả lại ghi thêm vào những văn cú mà Cụ-túc-bản không có để được càng đầy đủ.
Mong rằng việc làm này, đem nhiều lợi ích cho người trì tụng.
ÐÔI LỜI PHI LỘ
Ba tạng Kinh-điển của Phật-giáo hiện nay gồm có đến hơn vạn quyển. Trong ấy, những Kim-ngôn của Ðấng Ðiều-Ngự và huyền-nghĩa của chư Tổ, hàm ẩn Ðạo-lý thâm thúy vô biên. Muốn du ngoạn trong bể Phật-pháp bao la, hay lên đỉnh non thánh-giáo để nhìn khắp nơi bằng tầm mắt càn-khôn-nhất-lãm, phải phí nhiều thời giờ và tâm lực, mà giữa cuộc sống nhiều vướng bận ngày nay, ít ai làm nổi. Vì lẽ ấy, đã từ lâu bút giả có ý muốn gom góp phần tinh yếu của thánh-giáo viết ra thành tập, để giúp những vị mến đạo mầu của Ðức Thế-Tôn, có sự hiểu biết khái quát về pháp Phật. Và ý định nầy đã được thực hiện từ năm 1963, nhân lúc sắp sửa ra đảm nhận trường Phật-Học Huệ-Nghiêm.
Nội dung của toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU sau đây gồm có nhiều thiên, mỗi thiên phân thành nhiều chương, và mỗi chương bao hàm nhiều mục. Ðó là hệ thống phân biệt để duyệt giả dễ ghi nhận. Ðiều đáng chú ý là phần trích dẫn những Kinh-luận trong đây, nghĩa lý nó không có tánh cách nhất định. Tại sao thế? Bởi giáo pháp của thánh-nhân nói ra đều tùy thời tùy cơ để dắt dìu, phá chấp. Có thể một lời thuyết giáo đối với căn cơ nầy thích hợp nhưng với cơ khác không thích hợp, với thời gian trước tiện nghi song với thời nay không tiện nghi. Cho nên một vị tôn túc đã bảo: “Y theo Kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời, nhưng lìa Kinh một chữ tức đồng với ma thuyết”. Vậy chỗ thu thập của người khéo học Phật là không chấp Kinh, không bỏ Kinh, như người đời đã bảo: “Khôn chết, dại cũng chết, duy biết mới sống”. Và người khéo học Phật cũng đừng chấp lý bỏ sự, hay chỉ theo sự quên phần lý. Về việc được ý quên lời nầy, duy mỗi người tự thể hội, không thể nói hết được.
“Trần chẳng tương quan, bể cả nương dâu mặc thay đổi.
Lòng không sở đắc, thông xanh mây trắng tự vui nhàn”.
Xin mượn hai câu nầy để chúc sự thành tựu của duyệt giả sau khi đọc xong toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU.
Ngày 12-8-1965
Tỳ-khưu Thiền Tâm, tự Liên Du
PHÁP YẾU TU HÀNH
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
Yếu điểm của đường tu
Gồm hai phần Sự, Lý
Lý tu là sửa tâm
Cho hợp với chân lý
Sự tu chỉnh ba nghiệp
Giúp chứng cảnh chân như
Sửa tâm là dứt trừ
Nghiệp tham, ái, nóng, giận
Si mê cùng tật đố
Ngã mạn với kiêu căng
Chớ chạy theo hình thức
Say đắm nẻo lợi danh
Chuộng địa vị, quyền hành
Khoe thông minh, tài giỏi
Phải sanh lòng giác ngộ
Niệm thanh tịnh từ bi
Dõng tiến mà kiên trì
Sáng suốt mà khiêm hạ
Tự nghĩ mình xưa nay
Ðã tạo nhiều tội chướng
Chịu nhẫn nhục, sám hối
Biết an phận, tùy duyên
Duyên tốt chẳng kiêu khoe
Duyên xấu không thối não
Bình tỉnh mãi tiến tu
Như bơi thuyền ngược nước
Về biển Tát Bà Nhã
Ðến Bảo Sở an vui
Ðó là phần tu tâm
Hợp với lý giải thoát
Sự tu là thân nghiệp
Lễ kính Phật sám hối
Khẩu nghiệp trì chú kinh
Hoặc niệm Phật khen ngợi
Ý nghiệp giữ thanh tịnh
Mật tu môn Lục Niệm
Nguyện đền đáp bốn ân
Nguyện mình cùng chúng sanh
Sanh cõi vui thành Phật
Ðời đời gặp chánh Pháp
Tu sáu độ muôn hạnh
Tâm Bồ Ðề độ sanh
Trần kiếp không thối chuyển
Tu Sự mà bỏ Lý
Làm sao mở chân tâm?
Tu Lý mà phế Sự
Cũng không thể thành Phật !
Tu Sự chẳng chấp TƯỚNG
Thì tức SẮC là KHÔNG
Tu Lý không bỏ Sự
Ðó tức KHÔNG là SẮC
Lý chính thật Chân-Không
Sự là phần Diệu-Hữu
Chân-Không tức Diệu-Hữu
Diệu-Hữu tức Chân-Không
Nếu chưa đạt lẽ nầy
Thà tu hành chấp CÓ
Ðừng cầu cao bác tướng
Mà lạc vào Ngoan-Không
Ðây chính hầm khổ đọa
Kẻ thông minh đời nay
Ða số mắc lỗi nầy
Xưa có sư Tông-Thắng
Tài huệ biện cao siêu
Vì ỷ giỏi kiêu căng
Nên bị nhục chiết phục
Hỗ thẹn muốn tự tận
Thọ thần hiện thân khuyên
“ Sư nay đã trăm tuổi
Tám mươi năm lầm lạc
May nhờ gặp Thánh nhân
Huân tu mà học đạo
Tuy có chút công đức
Mà lòng hay bỉ ngã
Ỷ thông minh biện bác
Lấn người không khiêm hạ
Lời cao hạnh chưa cao
Nên phải bị quả báo
Từ đây nên tự kiểm
Ít lâu thành trí lạ
Các THÁNH đều tồn tâm
NHƯ LAI cũng như vậy ”
Lại có kẻ đua tướng
Tranh Thượng Tọa ,Ni Sư
Mượn thuyết pháp, tụng kinh
Ðể mưu cầu lợi dưỡng
Dành đệ tử, chùa chiền
Lập bè đảng, quyến thuộc
Thấy có ai hơn mình
Liền thị phi tật đố
Hại Thầy Bạn, phản Ðạo
Lừa dối hàng tín tâm
Lời nói thật rất cao
Việc làm thật rất thấp
Lý Sự đều sai trái
Hạng ấy hiện rất nhiều
Tạo biển khổ thêm sâu
Khiến đau lòng tri-thức
Lý, Sự đại lược thế
Công đức làm sao được?
Phật là ÐẠI-Y-VƯƠNG
Pháp là DIỆU-TIÊN-DƯỢC
Là phương-thuật rất mầu
Là như-ý bảo châu
Hay trừ nạn nghèo khổ
Khiến cho được giàu vui
Hay trừ tất cả bệnh
Khiến mau được bình phục
Hay trừ nạn yểu số
Khiến thọ-mạng dài lâu
Hay khỏi các tai ách
Như bão lụt, binh lửa
Giặc cướp cùng tà ngoại
Ác thú với độc xà
Các yêu ma , quỷ mị
Nạn động đất, xe, thuyền
Những phù-chú ếm-đối
Ðều phá tiêu tan hết
Cho đến trừ tội chướng
Sanh trưởng phước huệ to
Cứu chúng đọa Tam Ðồ
Siêu lên bờ giải thoát
Chuyên tụng một phẩm Kinh
Một Chân-Ngôn, hiệu Phật
Thì thành tựu các nguyện
Thỏa mãn các mong cầu
Chỉ sợ người không tin
Hoặc tin mà không sâu
Lại ngại không thực hành
Hoặc hành không bền lâu
Hoặc tuy hành bền lâu
Không chí tâm khẩn cầu
Chí tâm là không vọng
Trì niệm quên thân tâm
Lặng lẽ dứt phân biệt
Không trong, ngoài, người, cảnh
Khi đi, đứng, thức, ngủ
Chẳng bỏ câu trì niệm
Lúc hưỡn, gấp, an, nguy
Cũng vững vàng trì niệm
Cho đến khi sắp chết
Vẫn như thế trì niệm
Ðắc, thất đều do đây
Cần chi hỏi tri thức
Không hành như trên đây
Phật cũng khó cứu vớt
Huống nữa là phàm Tăng
Giúp ích được gì đâu
Nhớ lời Cổ Ðức dạy:
“Ta có một bí quyết
Khẩn thiết khuyên bảo nhau
Là hết lòng thành kính
Nhiệm mầu cực nhiệm mầu ”
Hãy ghi nhớ lời nầy
Lắng lòng suy gẫm sâu
Trời xanh tươi biếc một mầu
Ánh trăng vẫn sáng một mầu xưa nay
Mà sao đời đạo đổi thay
Cỏ hoa đượm nét u-hoài thờ-ơ
“Thuyết pháp bất đậu cơ
Chúng sanh một khổ hải ”
Ðời mạt suy thế đạo lại thêm thương
Sóng dồn bọt biển tà dương
Con thuyền cứu độ khuất đường vân yên
Bụi hồng tung gió đảo điên
Vô tình mai nở diệu hiền cành xuân.
Nam-mô Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như-Lai.
NIỆM PHẬT
Phải Phát Lòng Bồ Ðề
Ba cõi không an dường hỏa-trạch
Đâu miền chân-lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng-kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp-Vương!
Phải Diệt Niệm Buồn Chán
Người hoài bão tâm thương đời, hay kẻ có lòng lo đạo, trên đường chí nguyện thường thường phải trải qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhứt là tâm nhiệt thành sốt sắng.
Giai đoạn thứ hai là niệm buồn rầu chán nản.
Giai đoạn thứ ba là lòng BI TRÍ tùy cơ.
Nhưng thông thường, những vị hữu tâm ấy hay bỏ cuộc và tiêu tán chí niệm ở đoạn hai, ít ai đi đến đoạn ba. Vượt đoạn hai để đi đến đoạn ba là người có tâm bi trí rộng lớn, như con thần long khi bay lên mây xanh, lúc ẩn nơi lòng biển cả. Nhà Nho gọi điều này là:
"Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng."
Đây là ý nói:
"Bậc chân nho, đời hữu đạo thì đem đạo lưu hành, đời vô đạo lại lui về ở ẩn."
Như đức Khổng Tử khi đem đạo thánh hiền truyền hóa, các vua thời Đông Châu không ai chấp nhận, Ngài lui về viết sách dạy học trò, chí thương lo cứu đời không khi nào bị thối giảm.
Kẻ chưa thấu hiểu thời tiết cơ duyên, chưa suốt được đạo lý này, thường hay chán buồn bi phẫn!
ẨN TU NGẪU VỊNH
57.-Ẩn tu ý Tổ cảm thông tri
Bi trí tuỳ cơ độ Mạt-thì
Đâu phải chấp đua như thế tục
Mà riêng khen Tịnh đạo huyền vi.
NHƯ Ý : Ấn-Quang Pháp sư nói: Chư Phật thấy tất cả chúng sanh là Phật, nên tìm đủ cách để độ thoát Chúng sanh. Chúng sanh thấy Chư Phật là Chúng sanh, nên tìm đủ cách để làm tổn hại.
Chư Phật Bồ tát đã chứng đạo lý Chân-ngã Vô-ngã, nhận rõ tất cả Chúng sanh Hữu tình cho đến vạn vật VÔ TÌNH đều là bản thân bản thể của mình, cho nên vận tâm TRÍ BI, mở muôn cửa Pháp khi Quyền khi Thật, lúc Ẩn lúc Hiện toàn vì thương xót độ sanh, Tuyệt không có Ý hơn thua tranh chấp.
Thở xưa vì người học Đạo phần đông Căn-tánh sáng lẹ, lại nghiệp nhẹ Tâm-thuần hợp với tông Thiền, có thể một đời được ngộ Đạo chứng Đạo, nên chư Bồ Tát Tổ Sư hết sức tuyên dương về TÂM tông.
Giả sử đời này Tu chưa được tỏ Ngộ, thì Chánh pháp còn Thạnh, bậc Tri thức còn đông, trong các Kiếp sau cũng lần đi đến chỗ ngộ Chứng, lúc ấy Thiền Tông được lưu truyền rất thạnh, vượt bỏ các môn phái khác lại đằng sau, đến khi không còn nhìn thấy TÔNG TÍCH NGUỒN GỐC nữa.
Đến Thời Mạt Pháp, quần chúng căn cơ càng lúc càng Kém-tối, cảnh đời và đạo Đức càng lúc càng Suy-mòn, chư cổ Đức quán biết mới tuyên dương Tịnh Tông để cứu thời Mạc-hậu, lúc đầu vì thế lực và tập quán môn tu thiền còn quá thạnh, các ngài phải thì hiện trước NGỘ CHỨNG về Thiền, sau mới Tuyên Dương Tịnh Độ, tuy thế vẫn còn bị bác phá.
Lần lần vì Tịnh Pháp hợp thời cơ, nên thế lực càng lúc càng song hành với Thiền, rồi lấn lướt hơn bên Thiền, nên các Thiền-giả kém suy hiểu, mới phát khởi mối tranh chấp, cảnh phân hóa nguyên do từ đó.
Đời Lương Võ Đế vì luận đạo không hợp cơ, Đức Đạt Ma Tổ Sư bỏ lên ẩn trên non Thiếu Thất, vua Lương-võ hỏi ngài CHÍ CÔNG, một vị Cao Tăng Đắc Đạo vị đó là ai?
Chí-Công đáp, đó là ỨNG THÂN của Bồ Tát Quán-Thế-Âm, bệ hạ không thể mời thỉnh trở về được đâu, lại tương truyền rằng ngài Bát Nhã Đa La, tổ thứ 27 của Thiền Tông ở Ấn Độ, là ỨNG THÂN của Đại-Thế-Chí Bồ Tát.
Đức Quán-Âm, Thế-Chí phụ Đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc, chính thức là nhân vật của Tịnh-độ mà khi ỨNG HÓA, vì thuận theo căn cơ để độ sanh cũng PHẢI ỨNG HÓA THÂN trong Thiền-Tông, xem Thế thì biết chư Bồ-tát Tổ-sư đâu có phân biệt ?
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm
LỰC, HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.
NHƯ Ý : 3 Điểm TÍN NGUYỆN HẠNH với sự CHÍ THÀNH tu trì là yếu ước của môn Tịnh-Độ, Tuy nói ít song nếu dẫn ra, thì Rộng-rãi Mầu-nhiệm Vô-cùng.
Đạo NHO bảo:
“Phóng Chi Tắc Di Ư Lục Hiệp,
Quyện Chi Tắc Thoái Tàng Ư Mật.”
(Buông ra thì Đầy-cả Đất-trời,
Thâu lại mất Không-còn Hình-tướng.)
Ý nầy đâu khác chi với Đạo-Phật.
Thưa các Vị,
Tám bài cuối xin miễn giảng giải, càng nói lại càng Sai lầm, SAI VỚI ĐẠO, bởi vì đây cũng là Ý sau rốt của người TU, Bút-giả hiện chưa đi đến Địa-vị nầy như Chư Tăng Ni khác, vẫn mong sẽ đắc Ý trước khi VIÊN TỊCH.
101.-Ẩn tu niệm niệm bút sanh hoa
Thi-tứ nguồn tâm một mạch ra
Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.
102.-Ẩn tu trắc trắc, lại bình bình
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới
Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.
103.-Ẩn tu niệm vỡ chụp pha-lê
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.
104.-Ẩn tu sừng-sửng cội cây khô
Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ
Phật tử đến thăm như hỏi đạo
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.
105.-Ẩn tu nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.
106.-Ẩn tu suối lặng bóng chim qua
Chim nước đều như tự tại hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!
107.-Ẩn tu bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ Oai âm tỉnh mộng hồn
Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa
Sư-Vương lại dạo dã hồ thôn.
108.-Ẩn tu trì niệm tháng năm qua
Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ
Tin-tức ngày nay vừa thấy được
Tiếng chuông Sơn tự bóng trăng tà !
TỰ CẢM
Sáu tám nhọc-nhằn kể xiết chi,
Thăng trầm nhiều nổi chí không di.
Mài giũa cho thành ra ngọc quý,
Mới hay châu nọ thiệt “Ma-ni”.
Một niệm công-thuần hai bốn chẵn,
Cõi tạm khứ-hồi mấy kẻ tri!
Khỉ đến, mèo kêu, ba chuột chạy,
Trần-duyên vĩnh dứt, đoạn sầu bi.
Sáu tám năm qua việc đáng kinh,
Thăng-trầm vùi-dập, lắm tai-tinh.
Chẳng qua một giấc mơ dài ấy,
Mà kiếp phù-sinh tạm múa hình.
Hai bốn năm ròng chuyên NHỨT NIỆM,
DI-ĐÀ sáu chữ phóng quang-minh.
Hôm qua tin-tức trời TÂY báo,
GIỜ MẸO MAI ĐÂY TẠ THẾ TÌNH.
Kệ rằng :
Đời ta chí gởi chốn Liên-trì,
Trần thế vinh-hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A-DI.
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng.
UM! BÚT RUM! HÙM!
CHUNG
Phật-Đảnh Tôn-Thắng Đà-Ra-Ni
Nam-mô ba ga pha tê. Sạt hoa tát răn, lô ky da. Bơ ra di, vi ti sắc tra da. Bút đà da, ba ga pha tê. Tát đi da tha !
Um ! Bút rum, bút rum, bút rum. Suýt đà da, Suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Á sá ma, sá ma. Sa măn tá, phạ hoa sát. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na. Soa phạ hoa, vi suýt đi. Á vi chuân da, du măn. Sạt hoa tát thá ga đá. Sú ga da. Phạ ra, phạ ca nã. A mi rị tá, bi sá cu. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.
Um ! Á hạ ra, á hạ ra. A du săn, đà ra ni. Suýt đà da, suýt đà da. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa. A hoa lô ki ni. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê. Sá tra, bá ra mi tá. Ba rị, bủ ra ni. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri. Hoa di ra, ca da. Săn hạ đa nã, vi suýt đi. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni. Á ma ni, á ma ni. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi. Tát thá đá, bủ đa. Cu thi, vi ri suýt đi. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.
Um ! Hi hi. Dá ra, dá ra. Vĩ dá ra, vĩ dá ra. Sa ma ra, sa ma ra. Sa phạ ra, sa phạ ra. Sá ra phạ, bút đa. Đi sắc sá na. Đi sắc si tê. Suýt đi, suýt đi. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri. Á họa di ri. Họa di ra, gạ bi. Dá ra, gạ bi. Vĩ da ra, gạ bi. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi. Họa di rô, na ga tê. Họa di rô, na bà vê. Họa di ra, sam bà vê. Họa di rô, họa di rị na. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu. Sạt hoa, tát thá ga đa. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.
Um ! Sất đi da, sất đi da. Bút đi da, bút đi da. Vi bút đi da, vi bút đi da. Bồ đà da, bồ đà da. Vi bồ đà da, vi bồ đà da. Mô ca da, mô ca da. Vi mô ca da, vi mô ca da. Suýt đà da, suýt đà da. Vi suýt đà da, vi suýt đà da. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da. Sa măn đá da, sa mi, bi ri suýt đi. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra. Mạn đà ra, bá na. Đi sắc si tê. Sóa ha .
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần... hoặc 108 lần)
USNISA VIJAYA DHARANI
1. NAMO BAGABHÀTÉ,
2. SARVATADRAN LOKIYA
3. PRADI VITISTRAYA
4. BUDDHAYA BAGABHÀTÉ
5. TADYATHA!
6. AUM! BHRUM BHRUM, BHRUM
7. SUDDHÀYA, SUDDHÀYA.
8. VISUDDHÀYA, VISUDDHÀYA.
9. ÁSÀMA, SÀMA.
10. SAMÀNTA BHÀVASAD.
11. SABHÀRANA GATI GAGÀNA.
12. SVABHÀVA VISUDDHI.
13. A'VICANYA DUMAM.
14. SARVÀTATTHA GADÀ.
15. SÙGADA.
16. BHÀRA BHÀCANÀ.
17. AMIRTÁ PISÀKU.
18. MAHA MUDRA MANDARA PANA.
19. AUM! ÁHARA, ÁHÀRA.
20. AYUSÀN DHÀRANI.
21. SUDDHÀYA, SUDDHÀYA.
22. GAGANA SVABHÀVA VISUDDHI.
23. USNISÀ VICAYA, VISUDDHI.
24. SÁHÀSARA RASAMI SANTONITÉ.
25. SÀRAVA TATTHAGÀDA.
26. AVALOKINI.
27. SÀRVATATTHÀGADA MATTÉ
28. SÀTRA PÀRAMITÀ.
29. BARI PÙRANI.
30. NASÀ BÙMIPRA DISSITÉ.
31. SÀRAVA TATTHAGADA H'RIDHÀYA.
32. DISSÀNA.
33. DISSITÉ.
34. AUM! MÙDRI MÙDRI, MAHA MÙDRI.
35. VAJRA CAYA.
36. SAMHÀDANÀ VISUDDHI.
37. SÀRAVA KAMA, BHÀRANA VISUDDHI.
38. PARA DURIKATI BIRI VISUDDHI.
39. PRATINA VARADHÀYA AYÙSUDDHI.
40. SAMAYÀ DISSÀNA DISSITÉ.
41. AUM! MANI MANI, MAHA MANI.
42. ÁMANI, ÁMANI.
43. VIMANI, VIMANI, MÀHA VIMANI.
44. MATDI MATDI, MÀHA MATDI.
45. TATTHÀDA BÙDDHA.
46. KUTHI VIRISUDDHI.
47. VISAPHORA BUDDHI VISUDDHI.
48. AUM! HYHY
49. JÀYA JÀYA
50. VIJÀYA VIJÀYA.
51. SAMARA SAMARA.
52. SABHÀRA SABHÀRA.
53. SÀRABHÀ BUDDHA.
54. DISSANA
55. DISSITÉ.
56. SUDDHI SUDDHI.
57. VÀJRI VÀJRI MÀHÀVAJRI.
58. ÁVÀJRI.
59. VÀJRA GABI.
60. JÀYA GABI.
61. VIJÀYA GÀBI.
62. VÀJRA JVÀLA GÀBI.
63. VÀJRO NAGATÉ
64. VÀJRO NABHÀVÉ.
65. VAJRA SAMBHÀVÉ.
66. VÀJRO VÀJRINA.
67. VÀJRAM VABHÀ DUMÀMÀ.
68. SÀRIRAM SÀRABHÀ SATTABHÀNAIM.
69. TÀCAYA BIRI VISUDDHI.
70. S'YA VABHÀ DUMI SATNA.
71. SÀRABHÀ GATI BIRISUDDHI.
72. SÀRABHÀ TATTHAGÀDA S'YAMI.
73. SÀMA SABHÀ SADYANTU.
74. SARVA TATTHAGADA.
75. SÀMA SÀBHÀSA DISSITÉ.
76. AUM! S'DIYA S'DIYA
77. BUDDHIYA BUDDHIYA.
78. VIBUDDHIYA VIBUDDHIYA.
79. BODDHÀYA BODDHÀYA.
80. VIBODDHÀYA VIBODDHÀYA.
81. MOCAYA MOCAYA.
82. VIMOCAYA VIMOCAYA.
83. SUDDHÀYA SUDDHÀYA.
84. VISUDDHÀYA VISUDDHÀYA.
85. SAMÀNTA TATBIRI MOCAYA.
86. SAMANDHÀYA SAMI BIRISUDHI
87. SÀRABHÀ TATTHAGADÀ SAMAYA H'RIDHÀYA.
88. DISSÀNA DISSITÉ.
89. AUM! MUDRI MÙDRI MAHA MUDRA.
90. MANDÀRA PANA.
91. DISSITÉ.
92.SVÀHÀ.
AUM ! BHRUM, HŪM.
Phật-Đảnh Tôn-Thắng Đà-Ra-Ni
1. Nam-mô ba ga pha tê.
2. Sạt hoa tát răn, lô ky da.
3. Bơ ra di, vi ti sắc tra da.
4. Bút đà da, ba ga pha tê.
5. Tát đi da tha !
6. Um ! Bút rum, bút rum, bút rum.
7. Suýt đà da, Suýt đà da.
8. Vi suýt đà da, vi suýt đà da.
9. Á sá ma, sá ma.
10. Sa măn tá, phạ hoa sát.
11. Sa phả ra na, ga ti, ga gạ na.
12. Soa phạ hoa, vi suýt đi.
13. Á vi chuân da, du măn.
14. Sạt hoa tát thá ga đá.
15. Sú ga da.
16. Phạ ra, phạ ca nã.
17. A mi rị tá, bi sá cu.
18. Ma ha muýt đơ ra, măn đa ra, ba na.
19. Um ! Á hạ ra, á hạ ra.
20. A du săn, đà ra ni.
21. Suýt đà da, suýt đà da.
22. Ga ga na, xoa phạ hoa, vi suýt đi.
23. U sắc ni sá, vi ca da, vi suýt đi.
24. Sá hạ sa ra, ra sa mi, săn tô ni tê.
25. Sá ra hoa, tát thá ga đa.
26. A hoa lô ki ni.
27. Sạt hoa tát thá ga đa, mát tê.
28. Sá tra, bá ra mi tá.
29. Ba rị, bủ ra ni.
30. Na sá, bủ mi bơ ra, đi sắc si tê.
31. Sá ra hoa, tát thá ga đa, hất rị đà da.
32. Đi sắc sá na.
33. Đi sắc si tê.
34. Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, ma ha muýt đơ ri.
35. Hoa di ra, ca da.
36. Săn hạ đa nã, vi suýt đi.
37. Sá ra hoa, ca ma, phạ ra na, vi suýt đi.
38. Ba ra, đu ri ca ti, bi ri, vi suýt đi.
39. Bơ ra ti na, hoa ra đá da, a dục suýt đi.
40. Sa ma dã, đi sắc sá na, đi sắc si tê.
41. Um ! Ma ni, ma ni, mạ hạ ma ni.
42. Á ma ni, á ma ni.
43. Vĩ ma ni, vĩ ma ni, mạ hạ vĩ ma ni.
44. Mát đi, mát đi, mạ hạ mát đi.
45. Tát thá đá, bủ đa.
46. Cu thi, vi ri suýt đi.
47. Vĩ sa phổ ra, bút đi, vi suýt đi.
48. Um ! Hi hi.
49. Dá ra, dá ra.
50. Vĩ dá ra, vĩ dá ra.
51. Sa ma ra, sa ma ra.
52. Sa phạ ra, sa phạ ra.
53. Sá ra phạ, bút đa.
54. Đi sắc sá na.
55. Đi sắc si tê.
56. Suýt đi, suýt đi.
57. Họa di ri, họa di ri, mạ hạ họa di ri.
58. Á họa di ri.
59. Họa di ra, gạ bi.
60. Dá ra, gạ bi.
61. Vĩ da ra, gạ bi.
62. Họa di ra, rít họa lã, gạ bi.
63. Họa di rô, na ga tê.
64. Họa di rô, na bà vê.
65. Họa di ra, sam bà vê.
66. Họa di rô, họa di rị na.
67. Họa di rảm, hoa phạ, đô mạ mạ.
68. Sá rị rảm, sá ra phạ, sát ta phạ năng.
69. Tả ca da, bi ri, vi suýt đi.
70. Sất da, hoa phạ, đô mi, sát na.
71. Sá ra phạ, ga ti, bi rị suýt đi.
72. Sá ra phạ, tát thá ga đa, sất da mi.
73. Sá ma, sa phạ, sát dăn tu.
74. Sạt hoa, tát thá ga đa.
75. Sá ma, sá phạ sa, đi sắc si tê.
76. Um ! Sất đi da, sất đi da.
77. Bút đi da, bút đi da.
78. Vi bút đi da, vi bút đi da.
79. Bồ đà da, bồ đà da.
80. Vi bồ đà da, vi bồ đà da.
81. Mô ca da, mô ca da.
82. Vi mô ca da, vi mô ca da.
83. Suýt đà da, suýt đà da.
84. Vi suýt đà da, vi suýt đà da.
85. Sa măn tá, tát bi ri, mô ca da.
86. Sa măn đá da, sa mi, bi ri suýt đi.
87. Sá ra phạ, tát thá ga đá, sam ma da, hất rị đà da.
88. Đi sắc sá na, đi sắc si tê.
89. Um ! Muýt đơ ri, muýt đơ ri, mạ hạ muýt đơ ra.
90. Mạn đà ra, bá na.
91. Đi sắc si tê.
92. Sóa ha .
UM! BÚT RUM! HÙM!
LIÊN TỤC TRONG VÒNG 7 NGÀY , ĐỂ TRỪ TẤT CẢ "KHẨU NGHIỆP" ĐỐI VỚI "CHA MẸ", CHƯ TĂNG...LẠI CŨNG ĐỐNG CỬA TẤT CẢ "ÁC-ĐẠO", MỞ ĐƯỜNG NHƠN, THIÊN, NIẾT BÀN CHO NHỨT THIẾT CHÚNG SANH.
LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY, THÌ CÓ THỂ "TRUYỀN-BÁ LƯU THÔNG" BỘ KINH NẦY KHẮP PHÁP GIỚI CHÚNG-SANH.
USNISA VIJAYA DHARANI SUTRA
(Translated version of Master Buddhapala during the
Tang Dynasty)
Thus I have heard, at one time, the Bhagavan (World
Honoured One) was dwelling in the city of Shravasti at the Jeta Grove, in the
Garden of the Benefactor of Orphans and the Solitary (Ananthapindada) ,
together with his regular disciples of twelve hundred and fifty great Bhikshus
and twelve thousand Maha Bodhisattvas Sangha in all. At that time the devas in
Trayastrimsa Heaven were also having a gathering in the Good Dharma Hall. Among
them was a devaputra by the name of Susthita who, together with the other great
devaputras, was frolicking in the garden and courtyard, enjoying in the
supremely wonderful bliss of heavenly life. Surrounded by devis they were
extremely happy - singing, dancing and entertaining themselves. Soon after
nightfall, Devaputra Susthita suddenly heard a voice in space saying,
"Devaputra Susthita, you have only seven days left to live. After death,
you will be reborn in Jambu-dvipa (Earth) as an animal for seven successive
lives.
Then you will fall into the hells to undergo more
sufferings. Only after fulfilling your karmic retribution will you be reborn in
the human realm, but to a humble and destitute family, while in the mother's
womb you will be without eyes and born blind." On hearing this, Devaputra
Susthita was so terrified that his hair stood on end. Tormented and distressed,
he rushed over to the palace of Lord Sakra. Bursting into tears and not knowing
what else to do, he prostrated himself at the feet of Lord Sakra, telling Lord
Sakra of what had happened. "As I was enjoying the frolic of dance and
songs with the heavenly devis, I suddenly heard a voice in space telling me
that I had only seven days left, and that I would fall into Jambu-dvipa after
death, remaining there in the animal realm for seven successive lives.
Following that, I would fall into the various hells
to endure greater sufferings. Only after my karmic retribution had been
fulfilled would I reborn as a human, and even then I would be born without eyes
in a poor and disreputable family. Lord of Heaven, how can I escape from such
sufferings?" Lord Sakra immediately calmed his mind to enter Samadhi and
made careful observations. Instantly, he saw that Susthita would undergo seven
successive evil paths in the forms of a pig, dog, jackal, monkey , python, crow
and vulture, all feeding on filth and putrescence. Having seen the seven future
rebirth forms of Devaputra Susthita, Lord Sakra was shattered and was filled
with great sorrow, but could not think of any way to help Susthita. He felt
that only the Tathagata, Arhate, Samyak-sambuddha could save Susthita from
falling into the great sufferings of evil destines. Thus, soon after nightfall
that very day, Lord Sakra prepared various types of flower wreaths, perfume and
incense. Adorning himself with fine deva garments and bearing these offerings,
Lord Sakra made his way to the garden of Ananthapindada, abode of the World
Honoured One. Upon arrival, Lord Sakra first prostrated himself at the Buddha's
feet in reverence, then circumambulated the Buddha seven times clockwise in
worship, before laying out his great puja (offerings).
Kneeling in front of the Buddha, Lord Sakra
described the future destiny of Devaputra Susthita who would soon fall into the
evil paths with seven successive rebirths in the animal realm with details of
his subsequent retribution. Instantly, the usnisa (crown of the head) of the
Tathagata radiated multiple rays of light, illuminating the world in all ten
directions, the light then returned, circling the Buddha three times before
entering His mouth. Then the Buddha smiled and said to Lord Sakra, "Lord
of Heaven, there is a Dharani known as the 'Usnisa Vijaya Dharani'. It can
purify all evil paths, completely eliminating all sufferings of birth and
death. It can also liberate all miseries and sufferings of beings in the realms
of hell, King Yama and animal, destroy all the hells, and transfer sentient
beings onto the virtuos path." "Lord of Heaven, if one hears this
Usnisa Vijaya Dharani once, all the bad karma incurred from his previous lives
that should cause him to fall into hells will be destroyed altogether. He will
instead acquire a fine and pure body. Wherever he is reborn, he will clearly
remember the Dharani - from one Buddhahood to another, from one heavenly realm
to another heavenly realm.
Indeed, throughout the Trayastrimsa Heaven, wherever
he is reborn, he will not forget." "Lord of Heaven, if someone at
death's door recalls this divine Dharani, even for just a moment, his lifespan
will be extended and he will acquire purification of body, speech and mind.
Without suffering any physical pain and in accordance with his meritorious
deeds, he will enjoy tranquility everywhere. Receiving blessings from all the
Tathagatas, and constantly guarded by devas and protected by Bodhisattvas, he will
be honoured and respected by people, and all the evil hindrances will be
eradicated." "Lord of Heaven, if anyone can sincerely read or recite
this Dharani even for a short period of time, all his karmic retribution which
would lead him to suffer in the hells, the animal realm, the realm of King Yama
and the hungry ghost realm, will be completely destroyed and eradicated without
leaving any trace. He will be free to go to any of the Buddhas' Pure lands and
heavenly palace; all gateways leading to the Bodhisattvas' abode are open to
him unobstructed." After hearing the above discourse, Lord Sakra
immediately appealed to the Buddha, "For the sake of all sentient beings,
may the World Honoured One kindly give a discourse on how one's lifespan can be
lengthened." The Buddha was aware of Lord Sakra's intention and his
eagerness to hear His discourse on this Dharani and so immediately proclaimed
the Mantra thus:
"NAMO BHAGAVATE TRAILOKYA PRATIVISISTAYA
BUDDHAYA BHAGAVATE. TADYATHA, OM, VISUDDHAYA-VISUDDHAYA, ASAMA-SAMA
SAMANTAVABHASA- SPHARANA GATI GAHANA SVABHAVA VISUDDHE, ABHINSINCATU MAM.
SUGATA VARA VACANA AMRTA ABHISEKAI MAHA MANTRA-PADAI. AHARA-AHARA AYUH
SAM-DHARANI. SODHAYA-SODHAYA, GAGANA VISUDDHE. USNISA VIJAYA VISUDDHE.
SAHASRA-RASMI, SAMCODITE, SARVA TATHAGATA AVALOKANI, SAT-PARAMITA, PARIPURANI,
SARVA TATHAGATA MATI DASA-BHUMI, PRATI-STHITE, SARVA TATHAGATA HRDAYA
ADHISTHANADHISTHITA MAHA-MUDRE. VAJRA KAYA, SAM-HATANA VISUDDHE. SARVAVARANA
APAYA DURGATI, PARI-VISUDDHE, PRATI-NIVARTAYA AYUH SUDDHE. SAMAYA ADHISTHITE.
MANI-MANI MAHA MANI. TATHATA BHUTAKOTI PARISUDDHE. VISPHUTA BUDDHI SUDDHE.
JAYA-JAYA, VIJAYA-VIJAYA, SMARA-SMARA. SARVA BUDDHA ADHISTHITA SUDDHE. VAJRI
VAJRAGARBHE, VAJRAM BHAVATU MAMA SARIRAM. SARVA SATTVANAM CA KAYA PARI
VISUDDHE. SARVA GATI PARISUDDHE. SARVA TATHAGATA SINCA ME SAMASVASAYANTU. SARVA
TATHAGATA SAMASVASA ADHISTHITE, BUDDHYA-BUDDHYA, VIBUDDHYA-VIBUDDHYA,
BODHAYA-BODHAYA, VIBODHAYA-VIBODHAYA. SAMANTA PARISUDDHE. SARVA TATHAGATA
HRDAYA ADHISTHANADHISTHITA MAHA-MUDRE SVAHA."
(This Usnisa Vijaya Dharani is the improved version
with some additions to the original Sanskrit transliteration) Then the Buddha
told Lord Sakra, "The above Mantra is known as the 'Purifying All Evil
Paths' Usnisa Vijaya Dharani'. It can eliminate all evil karmic hindrances and
eradicate the suffering of all evil paths." "Lord of Heaven, this
great Dharani is proclaimed together by by Buddhas as numerous as eighty-eight
kotis (hundred million) of the grains of sand of the Ganges River.
All Buddhas rejoice and uphold this Dharani that is
verified by the wisdom seal of the Maha Vairocana Tathagata. This is because in
the evil paths, to liberate them from painful retribution in hell, animal and
King Yama's realms; to deliver beings facing immediate danger of falling into
the sea of birth and death (samsara); to assist helpless beings with short
lifespans and poor fortune and to deliver beings who like to commit all kinds
of evil deeds. Moreover, because of its dwelling and being upheld in the Jambu-
dvipa world, the power manifested by this Dharani would cause all beings in
hells and other evil realms; those with poor fortune and revolving in the
cycles of birth and death; those not believing in the existence of good and
evil deeds and are deviated from the proper path, to attain deliverance."
Again Buddha reminded Lord Sakra, "I now entrust this divine Dharani to
you. you should in turn transmit it to Devaputra Susthita. In addition , you
yourself should receive and uphold it, recite, contemplate and treasure it,
memorise and revere it. This Dharani Mudra should be widely proclaimed to all
beings in the Jambu-dvipa world. I also entrust this to you, for the benefit of
all heavenly beings, that this Dharani Mudra should be proclaimed.
Lord of Heaven, you should deligently uphold and
protect it, never letting it to be forgotten or lost." "Lord of
Heaven, if someone hears this Dharani even for just a moment, he will not
undergo karmic retribution from the evil karma and severe hindrances
accumulated from thousands of kalpas ago, that would otherwise cause him to
revolve in the cycles of birth and death - in all kinds of life forms in the
evil paths - hell, hungry ghost, animal, realm of King Yama, Asuras, Yaksa,
Raksasa, ghosts and spirits, Putana, Kataputana, Apasmara, mosquitoes, gnats,
tortoises, dogs, pythons, birds, ferocious animals, crawling creatures and even
ants and other life forms. Owing to the merits accrued from hearing for a
moment this Dharani, once this very life is over, he will be reborn in the Buddhalands,
together with all the Buddhas and Ekajati-pratibaddha Bodhisattvas, or in a
distinguished Brahmin or Ksatriya family, or in some other wealthy and
reputable family. Lord of Heaven, this man can be reborn in one of the
above-mentioned prosperous and reputable families simply because he has heard
this Dharani, and hence be reborn in a pure place." "Lord of Heaven,
even acquiring the most victorious Bodhimanda is a result of praising the
meritorious virtues of this Dharani. Hence, this Dharani is also known as the
Auspicious Dharani, which can purify all evil paths. This Usnisa Vijaya Dharani
is like a Treasury of Sun Mani Pearl - pure and flawless, clear as space, its
brilliance illuminating and all- prevading. If any beings uphold this Dharani,
likewise will they be bright and pure. This Dharani is similar to the Jambunada
gold - bright, pure, and soft, can not be tainted by filth and well-liked by
all who see it.
Lord of Heaven, beings who uphold this Dharani are
just as pure. By virture of this pure practice, they will be reborn in the good
paths." "Lord of Heaven, where this Dharani dwells, if it is written
for distribution, propagated, received and upheld, read and recited, heard and
revered, this will cause all evil paths to be purified; miseries and sufferings
in all hells will be completely eradicated." Buddha again told Lord Sakra
cautiously, "If someone could write this Dharani and place It on the top
of a tall banner, high mountain or in a tall building or even keep It in a
stupa; Lord of Heaven! If there are bhiksus or bhiksunis, upasakas or upasikas,
laymen or laywomen who have seen this Dharani atop the above structures; or if
the shadows of these structures should fall on beings who who come near to the
structures, or particles of dust from the written Dharani are blown onto their
bodies; Lord of Heaven: Should the accumulated evil karma of these beings cause
them to fall into the evil paths such as realms of hell, animal, King Yama,
hungry ghost, Asura and other, they will all be spared from the evil paths, and
they will not be tainted with filth and defilement. Lord of Heaven! Instead,
all Buddhas will bestow predictions (Vyakarana) onto these beings who will
never regress from the path to Anuttara-samyak-sambodhi (complete enlightenment)."
"Lord of Heaven, let alone if one makes various offerings of flower
wreaths, perfumes, incense, banners and flags, canopies decorated with gems,
clothing, necklaces of precious stones, etc, to adorn and honour this Dharani;
and at major routes, if one builds special stupas to house this Dharani, then
most respectfully with palms together circumambulates the pagoda, bowing and
taking refuge, Lord of Heaven, those who make such offerings are called the
great Mahasattvas, Buddha's true disciples, and the pillars of Dharma. Such
stupas will be regarded as the Tathagata's complete body sharira-stupa."
At that time, in the early part of the night, the ruler of the Hell Realm -
King Yama.
came to the abode of the Buddha. First, using
various deva garments, beautiful flowers, perfumes and other adornments, he
made offerings to the Buddha, then circumambulated the Buddha seven times
before prostrating himself at the feet of the Buddha in reverence, saying,
"I heard that the Tathagata was giving a discourse in praise of upholding
the powerful Dharani; I have come with the intention to learn and cultivate it.
I shall constantly guard and protect those who uphold, read and recite this
powerful Dharani, not allowing them to fall into hell because they have
followed the teachings of the Tathagata." At this time, the four Guardians
of the world - the Caturmaharajas (Four Heavenly Kings) circumambulated the
Buddha three times, and most respectfully said, " World Honoured One, may
the Tathagata kindly explain in detail the way to uphold this Dharani."
The Buddha then told the Four Heavenly Kings, "Please listen attentively,
for your benefit as well as for the benefit of all beings with short lifespans,
I will now explain the method to uphold this Dharani. On a full-moon day - the
15th day of the lunar month, one should first bathe oneself and put on new
clothes, uphold the profound precepts and recite this Dharani a 1000 times.
This will cause one to lengthen one's lifespan, and be permanently free from
the sufferings of illness; all one's karmic hindranceswill be completely
eradicated. One will also be liberated from suffering in hell. If birds,
animals and other sentient beings hear this Dharani once, they will never again
be reborn in these impure and gross body forms once their lives have
ended." The Buddha continued, "If someone from a serious disease
hears this Dharani, he will be free from the disease.
All other illnesses will also be eradicated, so too
will the evil karma that will cause him to fall into the evil paths. He will be
reborn in the Land of Ultimate Bliss after the end of his life. From then
onwards he will no longer be born from the womb. Instead , wherever he is
reborn, he will be born transformed from the lotus flower and would always
remember and uphold this Dharani and gain knowledge of his past lives."
The Buddha added, "If someone has commited all the severe evil deeds
before his death, according to his sinful deeds, he ought to fall into one of
these realms of hell, animals, King Yama or hungry ghosts, or even into the big
Avici Hells, or be reborn as an aquatic creature, or in one of the many forms
of birds and animals. If someone could obtain part of the skeleton of the
deceased, and holding a fistful of soil, chant this Dharani 21 times before
scattering the soil over the bones, then the deceased will be reborn in
heaven." The Buddha further added, "If one can chant this Dharani 21
times daily, one is worthy of accepting all the immense worldly offerings and
will be reborn in the Land of Ultimate Bliss after one's death. If one chants
this Dharani constantly, one will attain Maha Parinirvana and be able to
lengthen one's lifespan besides enjoying the most extraordinary bliss. After
one's life is over, one will reborn in any of the wonderful Buddhalands, in
constant company of the Buddhas. All Tathagatas will always give discourses on
the profound and wonderful truth of Dharma and all World Honoured Ones will
bestow predictions of enlightenment upon one. The light illuminating from one's
body will pervade all Buddhalands." The Buddha further explained, "To
recite this Dharani, one should first, in front of the Buddha's image, use some
clean soil to construct a square mandala, the size according to one's wish. On
top of the mandala one should spread different kinds of grass, flowers and burn
different kinds of quality incense. Then kneeling down with the right knee on
the floor, mindfully reciting the Buddha's name and with the hands in the
Mudrani symbol, (i.e. each hand bending the forefinger before and pressing it
down with the thumb and placing both palms together before the chest) in
reverence, one should recite this Dharani 108 times. The showers of flowers
would rain down from the clouds and would thus be universally made as offerings
to Buddhas as numerous as the grains of sand of eighty- eight million Ganges
Rivers. These Buddhas will simultaneously praise, "Ezcellent! Rare indeed!
A Buddha's true disciple!" One will instantly attain Unobstructed Wisdom
Samadhi and the Great Bodhi Mind Adorned Samadi.
Thus is the way to uphold this Dharani." The
Buddha again exhorted Lord Sakra, saying, "Lord of Heaven, the Tathagata
uses this expedient means to deliver beings who would otherwise have fallen
into hells; to purify all evil paths and to lengthen the lifespans of those who
uphold this Dharani. Lord of Heaven, please go back and transmit this Dharani
to Devaputra Susthita. After seven days , come to see me with Devaputra
Susthita." Thus, at the abode of the World Honoured One, the Lord of
Heaven respectfully received this Dharani practice and returned to his heavenly
palace to convey it to Devaputra Susthita." Having received this Dharani,
Devaputra Susthita kept to the practice as instructed for six days and six
nights, after which all his wishes were completely fulfilled. The karma which
should have led him to suffer in all the evil paths were all eradicated. He
would remain on the Bodhi Path and increase his lifespan for an immeasurable
period of time.
Thus, he was extremely delighted, exclaiming aloud in
praise, "Extraordinary Tathagata! What a rare and wonderful Dharma! Its
efficacy explicity verified! Rare indeed! Truly I have thus obtained
deliverance!" When the seven days were over, Lord Sakra brought Devaputra
Susthita, together with other heavenly beings, respectfully bearing excellent
and wonderful adornment of flower-wreaths, perfumes, incense, jewelled banners,
canopies decorated with gemstones, deva-garments and garland of precious
stones, approached Buddha's abode and presented their grand offerings. Using
heavenly garments and various garlands of precious stones to make offerings to
the World Honoured One, they then respectfully circumambulated the Buddha a
hundred thousand times, paid homage to the Buddha, then happily took their
seats and listened to the Buddha preach the Dharma. The World Honoured One then
extended his golden arm and touched the crown of Devaputra Susthita, to whom He
not only preached the Dharma but bestowed a prediction of Devaputra Susthita's
attainment to Bodhi. Finally, the Buddha said, "This Sutra shall be known
as the 'Purifying All Evil Paths' Usnisa Vijaya Dharani'. You should deligently
uphold it." On hearing this Dharma, the entire assembly was extremely
happy. They faithfully accepted and respectfully practised it.
A Ceremony of Chanting Usnisa Vijaya Dharani (for
reference only)
(1) Inviting the Triple Jewel from Ten directions
"Namo to the all-encompassing Dharma realm of the universe, the triple
jewel of ten directions and of the past, present and future" (3X) (Each 3
times) "Namo Bhagavate Sakyamunaye Tathagataya" "Namo Bhagavate
Loka-vistirna-tejesvara-prabhaya Tathagataya" "Namo Bhagavate
Bhaisajya-guru-vaidurya-prabha-rajaya Tathagataya" "Namo Bhagavate
Pra-bhuta-ratnaya Tathagataya" "Namo Bhagavate Ratna-sikhinya
Tathagataya" "Namo Bhagavate Su-rupaya Tathagataya" "Namo
Bhagavate Vipula Gatraya Tathagataya" "Namo Bhagavate Abhayam-karaya
Tathagataya" 'Namo Bhagavate Amrta Rajaya Tathagataya" "Namo
Bhagavate Amitabhaya Tathagataya" "Namo Maitreya Bodhisattvaya"
"Namo Great Wisdom Manjusri Bodhisattvaya" "Namo Great Conduct
Samanta-bhada Bodhisattvaya' "Namo Great Compassion Aryavalokitesvaraya
Bodhisattvaya" "Namo Maha-sthama-prapta Bodhisattvaya"
"Namo Great Pure Sea of Bodhisattvas" "Namo Great Vows Ksitigarbha
Bodhisattvaya" "Namo Dharma Protector Wei Tuo Bodhisattvaya"
"Namo Guarding Host Bodhisattvaya" "Namo all Dharma Guarding
Deva Bodhisattvaya" "Namo Usnisa Vijaya Dharani"
(2) Mantra of Offering "Om, Amogha Puja Mani
Padma Vajre Tathagata Vilokite Samanta Pra-sara Hum"
(3) Reciting Usnisa Vijaya Dharani
(4) Recite any one or all the following (21-108
times) "Namo Amitabha Buddhaya" "Namo Aryavalokitesvara
Bodhisattva" "Namo Ksitigarbha Bodhisattva"
(5) True Words of Universal Transference of Merits
"Om, Smara-smara vimala Sara Maha Cakra Vah Hum"
(6) Transference of Merits (a) For individual
prayers or prayers on behalf of a person. "May the merits and virtues
accrued from this recitation, be transferred to disciple(s) [name(s)],
sincerely seeking the blessings and compassion of the triple jewel from ten
directions, so that my/our karmic obstruction can be eradicated, be healthy
physically and spiritually, my/our wisdom deepened and quickly attain Buddhahood.
At the same time, may all my/our friends and foes (and the ones who have passed
away [name(s)] be reborn in the good paths of Western Pureland." (b) For
use during mass gathering or daily recitation. "May the merits and virtues
accrued from these deeds, be transferred everywhere and reached everyone. May
all beings and ourselves be born together in the Land of Ultimate Bliss.
"May the merits and virtues accrued from these deeds, be transferred to
the true and unchanging truth, every mind is in accordance with the
truth." "May the merits and virtues accrued from these deeds, be
transferred to the highest fruition of Bodhi, every thought is accomplished and
perfect to the fruition of Bodhi."
(7) Tree Refuges "To the Buddha I take refuge,
may all beings understand the great Way profound ly and bring forth the Bodhi
mind." "To the Dharma I take refuge, may all beings deeply enter the
Sutra treasury and have wisdom as vast as the sea. "To the Sangha I take
refuge, may all beings form great assembly, all in harmony." (Attention!
The merits and awesome power of this Mantra is inconceivable, and the effect is
also inconceivable. Please remember to recite the Buddhisattva's name(s) and
transfer the merits after recitation)
Comments
Post a Comment