KINH NIỆM PHẬT BA LA MẬT
Ðã có bài kệ khen ngợi :
Niệm
Phật vào tướng thật
Chứng biết Phật với Phật.
Cảnh vô tận trang nghiêm
Môn Ðại Ba-La-Mật!
Cho nên khi niệm Phật, thoáng chốc dứt hết vọng
tưởng đi vào tịnh tâm, tức đã đầy đủ Môn Ðại Ba-La-Mật! rồi. Ba-la-mật là "bờ bên kia", là nơi giải thoát rốt ráo.
Niệm Phật thanh tịnh, tức đã đầy đủ Môn
Ðại Ba La Mật! đến bờ cứu cánh giải thoát vậy.
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
1. DUYÊN KHỞI
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
LÀ PHÁP
GIỚI DUYÊN KHỞI.
GỒM “CHÂN NHƯ” CÙNG “A
LẠI DA” DUYÊN KHỞI, DUNG NHIẾP
CẢ TÌNH VÀ TƯỞNG, HỮU LẪN KHÔNG. VÀ SAU
KHI LÂM CHUNG ĐƯỢC SANH
VỀ CÕI PHẬT A DI ĐÀ.
2. MƯỜI TÂM THÙ THẮNG
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
PHẢI
PHÁT KHỞI 10 TÂM THÙ THẮNG
1) Tín Tâm
2) Thâm Trọng Tâm
3) Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm
4) Xả Ly Tâm
5) An Ổn Tâm
6) Đà Ra Ni Tâm
7) Hộ Giới Tâm
8) Ba La Mật Tâm
9) Bình Đẳng Tâm
10) Phổ Hiền Tâm
3. NIỆM PHẬT CÔNG ĐỨC
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
THÌ TỰ NHIÊN THÀNH TỰU
10 TÂM THÙ THẮNG
Gọi
Là “NHỨT THIẾT PHẬT ĐỘ THỂ TÁNH”
4. XƯNG TÁN DANH HIỆU
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
ĐỂ THÂM
NHẬP NHƯ LAI TẠNG TÂM
THÌ
KHÔNG DÍNH MẮC VÀO "HIỆN TẠI LẠC TRÚ"
5. QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
THẲNG VÀO CẢNH
GIỚI THÁNH TRI TỰ CHỨNG
TƯƠNG ỨNG VỚI THẬP ĐỊA
BỒ TÁT
HAY
NIỆM
PHẬT BÁT NHÃ TAM MUỘI y “VÔ
SỞ ĐẮC”, mà mau đắc
“BA
THỪA” LÊN “PHẬT QỦA”
6. NĂNG LỰC BẤT TƯ NGHỊ CỦA DANH HIỆU PHẬT
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
PHẢI XƯNG
TÁN HỒNG DANH CÔNG ĐỨC
THẬP
PHƯƠNG TAM THẾ PHẬT, A DI ĐÀ ĐỆ NHỨT
CỬU
PHẨM ĐỘ CHÚNG SANH, OAI ĐỨC VÔ CÙNG CỰC
7. KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT VÀ ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NIỆM PHẬT BA LA MẬT
THÌ “TỊNH MẬT” VIÊN THÔNG
Lúc bấy giờ, Diệu-Nguyệt trưởng giả vui mừng vô hạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo phơi bày vai hữu, đi nhiễu quanh đức Phật Thích-Ca ba vòng, rồi chấp tay, quỳ gối, hướng lên đức Phật mà đọc kệ khen ngợi :
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
Lúc bấy giờ, trưởng-giả Diệu-Nguyệt ở trước đức Thế-Tôn, đọc bài kệ khen ngợi Phật rồi, thành khẩn thưa hỏi như thế nầy:
Kính bạch đức Thế-Tôn Toàn-giác, Toàn-trí, kinh này tên gọi là gì ? Chúng con phải thọ trì như thế nào ?
Phật bảo ông Diệu-Nguyệt trưởng giả rằng:
Kinh này gọi là NIỆM PHẬT BA LA MẬT, còn gọi là XƯNG TÁN HỒNG DANH CÔNG ĐỨC KINH cũng có tên là NIỆM PHẬT BÁT NHÃ TAM MUỘI KINH.
CÁC NGƯƠI Y THEO ĐÓ MÀ THỌ TRÌ.
KINH NIỆM
PHẬT BA LA MẬT
Đời Diêu Tần, ngài Tam-tạng Pháp-sư Cưu-Ma-La-Thập dịch từ Phạn-văn ra
Hán-văn
Hòa-Thuợng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán-văn ra Việt-văn
PHẨM
THỨ NHẤT
DUYÊN
KHỞI
PHẦN THÔNG TỰ
Chính tôi được nghe như
thế nầy. Một thuở nọ, đức Phật kiết hạ tại núi Kỳ-Xà-Quật, gần
thành Vương-Xá với chúng Đại Tỳ-kheo một muôn hai nghìn người.
THANH VĂN
CHÚNG
Đó là các vị trưởng
lão Xá-Lợi-Phất, Ma-Ha Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên,
Tu-Bồ-Đề, La-Hầu-La, Phú-Lâu-Na, A-Nan, A-Nan-Đà, Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề,
Gia-Du-Đà-La…
BỒ TÁT
CHÚNG
Lại có tám muôn vị Đại
Bồ-Tát khắp mười phương cùng đến tham dự. Đó là các ngài :
Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Phổ-Hiền Bồ-Tát, Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát,
Di-Lặc Bồ-Tát, Địa-Tạng Bồ-Tát, Diệu-Âm Bồ-Tát, Đại-Cường Tinh-Tấn Dõng-Mãnh
Bồ-Tát, Đà-La-Ni Tự-Tại Công-Đức-Lâm Bồ-Tát, Trang-Nghiêm-Vương Bồ-Tát ... tất cả
đều có năng lực thâm nhập vô lượng tam muội môn, tổng
trì môn, giải thoát môn, đã chứng Pháp thân, đắc ngũ
nhãn, biện tài vô ngại, thần thông du hý, biến hiện đủ
loại thân tướng khắp các quốc độ để cứu vớt chúng
sanh.
THIÊN
LONG BÁT BỘ, NHƠN CHÚNG
Lại có vô
lượng Đại-Phạm-Thiên Vương, Tự-Tại-Thiên Vương, Đế-Thích-Thiên Vương,
Đâu-Suất-Thiên Vương, Đao-Lợi-Thiên Vương cùng vô số quyến
thuộc dự hội.
Lại có Long Vương,
Khẩn-Na-La Vương, Càn-Thát-Bà Vương, A-Tu-La Vương, Ca-Lâu-La Vương ...
cùng vô số quyến thuộc câu hội.
Lại có Quốc mẫu Vi-Đề-Hy
hoàng thái hậu và vua A-Xà-Thế cùng hoàng tộc, quần thần câu
hội.
Lại có hơn năm trăm vị
Trưởng-Giả cư sĩ của thành Vương-Xá cùng vô số quyến
thuộc câu hội.
Tất cả đại
chúng đều cung kính cúi lạy dưới chân Phật, rồi lui ngồi
một bên.
PHẦN
BIỆT TỰ
DO TRƯỞNG GIẢ
DIỆU NGUYỆT
VÀ
QUỐC MẪU VI ĐỀ HY HOÀNG THÁI HẬU THƯA THỈNH
Lúc bấy giờ, trong hàng
Ưu-bà-tắc có một vị trưởng-giả tên là Diệu-Nguyệt, trú ngụ tại thành Vương-Xá,
từng quy y Tam-Bảo và thọ trì năm giới cấm, cùng đến
dự pháp hội. Vị Trưởng-Giả này từ vô lượng vô
biên a-tăng-kỳ kiếp quá khứ, từng gần gũi thừa sự cúng
dường vô lượng vô biên muôn ức hằng hà sa đức
Phật, y theo Chánh pháp tu hành. Hiện tại làm
thân cư sĩ, vợ con đông nhiều, nhà cửa nguy nga, kho đụn đầy
rẫy. Tuy ở giữa cảnh ràng buộc mà vẫn trưởng dưỡng tâm
trí giải thoát.
Tuy hưởng dụng ngũ
dục thế gian, nhưng vẫn hoài bão đại nguyện độ sanh của chư
Đại Bồ-Tát. Tuy ở trong chốn bùn lầy dơ bẩn mà vẫn sẵn sàng xả
ly thân mạng, tài sản, quyến thuộc để gieo trồng hạt
giống Bồ-Đề. Tuy ở trong căn nhà lửa chập chùng hiểm nạn, mà vẫn thực
hành Tuệ-giác Vô-lậu, hết lòng thương tưởng chúng
sanh như con một, thể hiện Pháp thí oán, thân bình
đẳng.
Trưởng-giả Diệu
Nguyệt từ trong đại chúng bước ra, đi nhiễu quanh đức
Phật ba vòng. Rồi đến trước Như-Lai, chấp tay quì xuống, gối bên
hữu chấm sát đất, cung kính bạch với đức Phật rằng:
- "Hi hữu Thế-Tôn
! Hi hữu Thế-Tôn ! Được làm thân người là khó, như con rùa gặp bộng
cây nổi, nhưng được gặp Phật ra đời còn khó gấp muôn phần.
Gặp Phật ra đời đã khó,
nhưng được nghe Chánh pháp lại còn khó gấp muôn phần. Được
nghe Chánh pháp đã khó, nhưng làm thế nào để nương theo giáo
nghĩa tu tập lại còn khó gấp vô lượng phần.
Bởi vì sao ?
Theo chỗ con xét nghĩ,
thì trong tám muôn bốn ngàn pháp mầu mà Như-Lai đã chỉ dạy, nhằm đưa hết
thảy chúng sanh ngộ nhập Phật tri-kiến, phải
có một pháp mầu cứu vớt những hạng chúng sanh tội khổ, mê đắm, xấu
ác. Hôm nay con phụng vì hết thảy chúng sanh tội khổ nơi thời
Mạt pháp, cũng như phụng vì các bậc trưởng-giả, cư-sĩ, bà-la-môn, sát-đế-lợi,
thủ-đà-la tại thành Vương-Xá nầy, mà khẩn cầu đức Thế-Tôn rủ lòng thương
xót, ban cho chúng con một cách thức tu hành thật dễ dàng
để giải thoát, một con đường thật vắn tắt để hoàn
thành Phật Trí.
Như đức Thế-Tôn từng chỉ dạy, đời Mạt pháp các chúng sanh trong cõi Diêm-phù-đề cang cường, ngỗ nghịch, tâm tạp, nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không biết hiếu thuận cha mẹ, không biết cung kính Sư-trưởng, không thực lòng quy y Tam-Bảo, thiếu năng lực thọ trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ báng Thánh nhân ... Cho nên con suy gẫm như thế này, phải có một môn tu thật giản đơn, thật tiện lợi nhất, dễ dàng nhất để tất cả những chúng sanh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm dứt luân chuyển sanh tử khắp ba cõi, được thọ dụng pháp lạc, sớm bước lên địa vị Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Vì sao như vậy ? Sau
khi Như Lai diệt độ khoảng một ngàn năm trở đi, đó là thời
kỳ Chánh pháp cuối cùng, các kinh điển dần dần ẩn
mất, chúng sanh căn cơ hạ liệt, ám độn, ngã
chấp sâu dày, tâm tưởng thô trệ, tà kiến lan tràn, say
sưa làm các nghiệp ác để tự vui.
Do đó tự
nhiên chiêu cảm động đất, đói kém, tật dịch, binh đao, bão
lụt, mất mùa, gió bão, thời tiết viêm nhiệt bức não. Thánh
nhân lại không xuất hiện. Tuổi thọ giảm dần. Nếu ai phát
khởi tâm chí tu hành, cũng không thể tu tập các
môn Giới luật, Thiền định, Trí tuệ, Giải thoát vô lậu.
Không thể tu tập Tứ-niệm-xứ, Bát-chánh-đạo, Tứ-chánh-cần. Không
thể tu tập Tứ-vô-lượng-tâm, không thể tu tập Sáu-ba-la-mật,
hoặc là Bố-thí ba-la mật, nhẫn đến Trí-huệ ba-la-mật, không thể tu
tập bằng các phương tiện của Quán Trí để ngộ
nhập Phật Tri Kiến. Không thể chứng đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm,
A-na-hàm, A-la-hán. Không thể chứng nhập Sơ-thiền nhẫn đến Tứ-thiền.
Không thể chứng nhập Niết-bàn Diệu-tâm. Không thể vào sâu vô lượng Tam-muội,
Thần-thông Du-hí của chư Bồ-Tát, nhẫn đến không thể thâm nhập cảnh
giới thù thắng trang nghiêm của chư Phật, hoặc rải cỏ
nơi đạo tràng, đánh rền trống pháp hàng phục ma quân.
Vì lý do như
vậy, mà đệ tử chúng con xét nghĩ nên phát khởi Vô-thượng
Bồ-đề-tâm. Khẩn cầu đức Thế-Tôn chỉ dạy giáo pháp nhiệm mầu,
mong lợi lạc hết thảy tội khổ chúng sanh ở thời
kỳ cuối cùng của Chánh pháp".
Trưởng-giả
Diệu-Nguyệt vừa dứt lời thưa thỉnh, thì bỗng đại địa chấn
động mãnh liệt. Khắp hư không, hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la,
hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, tuôn rắc như mưa. Từ phương
Tây, xuất hiện vô lượng vô số hằng hà sa đám
mây ngũ sắc, mây chiên đàn hương, mây y phục cõi trời,
mây âm nhạc cõi trời, mây hoa sen báu trắng bạch v.v...
Trong những đám mây ấy phát ra tiếng sấm lớn, đồng một
lúc chầm chậm bay về, nhóm lại phía trên đỉnh núi Kỳ-Xà-Quật. Tất
cả đại chúng đều vui mừng, hớn hở, tự biết ấy là điềm
lành chưa từng có.
Bấy giờ, Quốc
mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu từ trong đại chúng, bước
ra trước Phật đảnh lễ xong, bèn chấp tay thưa:
- "Bạch đức
Thế-Tôn, vì duyên cớ gì mà hiện điềm lành nầy ?"
PHẨM THỨ NHẤT
DUYÊN KHỞI
PHẦN
CHÁNH TÔNG
CÂU NIỆM PHẬT LÀ PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI,
GỒM “CHÂN
NHƯ” CÙNG “A LẠI DA” DUYÊN KHỞI, DUNG NHIẾP CẢ TÌNH VÀ TƯỞNG, HỮU LẪN KHÔNG.
VÀ SAU KHI LÂM CHUNG ĐƯỢC SANH VỀ CÕI PHẬT A DI ĐÀ.
Liền khi ấy, đức Như-Lai
từ nơi tướng lông trắng chặng giữa chân mày, phóng ra hào quang chiếu
khắp vô lượng vô biên vi trần số thế giới mười
phương mà nói lời nầy:
- "Lành thay ! Các
thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân ! Nay ta vì lời thưa thỉnh của Ưu-bà-tắc
Diệu-Nguyệt, và của Ưu-bà-di Vi-Đề-Hy, lại nương theo Bổn nguyện của vô
lượng vô số bất khả thuyết chư Phật, mà tuyên
dương giáo nghĩa bí mật vi diệu tối thắng đệ nhất,
nhằm cứu độ hết thảy chúng sanh ở trong thời
kỳ Phật Pháp cuối cùng.
Giáo nghĩa nầy, chư
Phật quá khứ đã nói, chư Phật hiện tại đang nói, và
chư Phật vị lai sẽ nói. Tất cả chúng sanh đời Mạt
pháp sẽ nương nơi giáo nghĩa này mà được giải
thoát rốt ráo, mãi mãi xa lìa các đường ác, hiện đời an
ổn, sau khi mạng chung đuợc sanh về cõi Phật, chứng ngôi vị
Bất-thối, dần dần tu tập cho đến khi đắc A-nậu-đa-la
Tam-miệu-tam Bồ-đề.
Nầy cư
sĩ Diệu-Nguyệt, hãy chăm chú lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói:
- "Diệu-Nguyệt, tất
cả các loại chúng sanh chết ở nơi đây, rồi sanh sang nơi
kia, sống chết nối nhau không dứt. Mỗi khi sắp mạng
chung thì các loại nghiệp lành dữ trong một
đời hiển hiện rõ ràng. Chúng sanh nào sống thuần
bằng tư tưởng, thì bay lên hóa sanh nơi
các cõi Trời. Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và
tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười
phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về
Tịnh-độ.
Chúng sanh nào tình
ít, tưởng nhiều thì vào hàng phi tiên, bay đi nhẹ nhàng nhưng không được
xa bằng hạng thuần tưởng.
Chúng sanh nào tình và tưởng bằng nhau thì sẽ phát sanh vào cõi người.
Bởi vì sao như vậy ? Bởi tưởng là thông sáng, tình
là mê tối. Nếu tình và tưởng ngang bằng nhau thì không bay lên và cũng
không đi xuống.
Chúng sanh nào tình
nhiều, tưởng ít thì sẽ lạc vào bàng-sanh, nhẹ thì làm chim bay, nặng thì
làm thú chạy.
Chúng sanh nào có
bảy phần tình và ba phần tưởng, sẽ bị đọa làm
thân ngạ quỷ, thường chịu nóng bức, đói khát trải qua trăm
ngàn kiếp dài lâu.
Chúng sanh nào có
chín phần tình và một phần tưởng, thì sẽ đọa
vào địa ngục. Nhẹ thì vào nơi địa ngục hữu gián, nặng thì sẽ đọa
vào ngục Đại A-tỳ. Nếu ngoài cái tâm thuần tình ấy, còn kiêm thêm
các trọng tội như hủy giới cấm của Phật, khinh báng
Đại-thừa, thuyết pháp sai lầm, đắm tham của tín thí,
lạm thọ sự cung kính, và phạm vào thập ác ngũ nghịch, thì
sẽ chiêu cảm quả báo luân chuyển sanh về các ngục Vô-gián ở
khắp mười phương.
Nầy Diệu-Nguyệt cư
sĩ ! Trong thời kỳ Chánh pháp diệt tận, chúng
sanh nơi cõi Diêm-phù-đề tình nhiều tưởng ít, tâm địa bỏn
sẻn, tham lam ghét ganh, các căn lành phước báo kém
cỏi. Lúc sanh tiền thọ nhận đủ loại nghiệp dữ, sau
khi mạng chung sẽ chịu các quả báo đau
khổ trong ba nẻo ác dữ với hạn kỳ lâu dài. Vì thế mà chư
Phật khắp mười phương xót thương vô cùng, luôn luôn tìm
cách cứu trừ khổ não cho các hạng chúng sanh kia.
Các đức
Như-Lai hiện ra nơi đời, mục tiêu chân chánh là không
chỉ tuyên dương diệu pháp bí áo sâu xa cho những
bậc Thánh giả, hiền nhân - mà mục tiêu khẩn
thiết nhất vẫn là nhằm cứu vớt các loại chúng sanh tội khổ, nặng
về tình, nhẹ về tưởng.
Chư Phật đã
dùng Phật nhãn quán sát khắp mười phương, thấy
rõ nghiệp lực chúng sanh lành dữ không đồng đều,
thấy thân tướng và cảnh giới của chúng sanh xấu
tốt có sai biệt. Nhưng điểm sanh khởi chẳng rời sát-na
tâm sanh diệt, chỗ hội quy cũng không rời sát-na tâm sanh diệt. Muốn hàng
phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì
không có pháp nào hơn là pháp NIỆM PHẬT.
Diệu-Nguyệt cư sĩ,
nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào, đủ lòng tin thì chỉ
cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT,
suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi,
thì hiện tiền chiêu cảm được Y báo, và Chánh
báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc. Lúc lâm
chung cố giữ sao cho được mười niệm tiếp nối liền nhau, lập
tức vào Phổ-đẳng Tam-muội của đức A-Di-Đà được Phật tiếp dẫn về
Tịnh-độ Tây-phương. Vĩnh viễn xa lìa các đường ác, không
còn luân hồi sanh tử. Đó gọi là quả vị Bất-thối-chuyển.
Từ lúc ấy nhẫn nại về sau, vượt qua Thập-địa, chứng
Vô-thượng-giác.
Diệu-Nguyệt nên
biết, đây thật là pháp vi diệu thù thắng đệ nhất, mà
chư Phật dùng để cứu độ khắp hết thảy chúng sanh. Đây
thật là môn tu thích đáng khế hợp mọi căn cơ mà chư
Phật dùng để đưa hết thảy muôn loài xa rời nẻo khổ, chứng
đắc Niết-bàn tại thế, thành Phật trong một đời.
Đây là môn tu Đại oai
lực, Đại phước đức mà chư Phật
giúp chúng sanh vượt thắng thân phàm phu, mà thâm
nhập cảnh giới Chơn-thường.
Đây là môn tu Đại
bát-nhã, Đại thiền-định, mà chư Phật dùng làm
thuyền bè đưa hết thảy chúng sanh qua thấu bờ bên kia, không còn
sanh già bịnh chết, hoàn toàn hưởng dụng pháp lạc.
Đây là môn tu Đại
trang-nghiêm, đại thanh-tịnh, mà chư Phật dùng để
đưa hết thảy chúng sanh vào giới luật, nhiếp chúng sanh vào oai
nghi, an ổn khoái lạc.
Đây là một môn tu Đại
nhu-hòa, Đại nhẫn-nhục, mà chư Phật giúp hết
thảy chúng sanh tự tại giữa khổ và vô
thường mà thành tựu Tri Kiến Phật.
Đây là môn tu Đại
Bồ-đề, Đại siêu-việt, mà chư Phật dùng làm cứu cánh để giúp hết thảy chúng
sanh thành Phật, như Phật ngay trong một kiếp.
Đây là môn tu Đại từ-bi,
Đại dũng-mãnh, mà chư Phật dùng để giúp chúng sanh có được cái
Tâm bằng Tâm chư Phật, có được cái nguyện bằng Nguyện chư Phật, mau
chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng Pháp thân
từng phần.
Lại nữa trong quá
khứ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nhẫn lại đến nay, chư
Phật cũng chỉ dùng một pháp Niệm Phật nầy để độ khắp chúng sanh.
Trong hiện tại cũng có vô lượng vô biên hằng hà
sa chư Phật ở mười phương cũng đang thuyết giảng giáo
nghĩa Niệm Phật nầy để rộng cứu vớt chúng sanh.
Trong đời vị lai,
tất cả chư Phật nếu muốn cứu vớt hết mọi chúng sanh, thì cũng phải do
nơi pháp Niệm Phật này. Do đó mà Như-Lai bảo rằng Niệm
Phật là vua của tất cả các Pháp.
Nầy Diệu-Nguyệt cư
sĩ, hãy một lòng tin nhận lời dạy của Như-Lai. Hãy ghi nhớ kỹ lời dạy
của Như-Lai. Hãy thực hành theo lời dạy của Như-Lai, và
hãy chứng đắc Pháp Nhẫn tối tôn, tối diệu, đệ nhất nầy
mà như lai đã ban cho.
Vì sao vậy ? Vì pháp
của Như Lai là chân thật, là giải thoát, là an vui,
là thuận theo sở cầu, sở nguyện của mọi chúng sanh. Vì
pháp của Như-Lai là vắng lặng, không dính mắc, vô
cấu nhiễm, thuận theo tình và tưởng của chúng sanh mà
vẫn giúp chúng sanh thành tựu địa vị Phật Đà, không bị hư
hoại, cho nên chẳng cần phải chán ghét lìa bỏ thế gian, ở
trong chỗ ràng buộc mà tâm vẫn tự tại, thọ dụng pháp
lạc. Và sau khi lâm chung được sanh về cõi
Phật A-Di-Đà".
PHẨM
THỨ HAI
MƯỜI
TÂM THÙ THẮNG
PHẦN CHÁNH TÔNG
"NIỆM PHẬT" PHẢI PHÁT KHỞI 10 TÂM THÙ THẮNG
1. Tín Tâm
2. Thâm Trọng Tâm
3. Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm
4. Xả Ly Tâm
5. An Ổn Tâm
6. Đà Ra Ni Tâm
7. Hộ Giới Tâm
8. Ba La Mật Tâm
9. Bình Đẳng Tâm
10. Phổ Hiền Tâm
Bấy giờ, đức Như-Lai
hiện ở trong đôi môi đẹp như trái tần-bà phóng ra luồng hào quang rực
rỡ, chói sáng gọi là Thành Tựu Thọ Quang Thể
Tướng Quang Minh, với trăm ngàn ức a-tăng-kỳ quang
minh làm quyến thuộc. Chiếu soi mười phương tất cả thế
giới tận hư không vô biên tế, vô chướng ngại. Hiển
hiện Như-Lai các thứ tự tại, khai ngộ vô lượng những
chúng Bồ-Tát, chấn động hằng hà sa quốc độ, diệt
trừ mọi thống khổ của chúng sanh, phá tan các đường dữ, bủa
che tất cả cung điện của ma vương, phơi bày tất cả Như-Lai giáng
sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, thuyết
pháp Đại-thừa giáo hóa chúng sanh nhẫn đến thị
hiện Niết-bàn.
Trưởng-giả Diệu-Nguyệt
thấy đức Thế-Tôn hiển hiện thần biến quảng đại, khiến tất
cả chúng hội, chư Đại Bồ-Tát, chư tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, chư cận-sự-nam,
cận-sự-nữ cùng hết thảy Trời, Rồng, Quỷ, Thần v.v... đều sanh lòng hoan
hỷ chẳng thể nghĩ bàn. Diệu-Nguyệt bèn cởi xâu chuỗi ngọc báu
nơi cổ mình mà cúng dường nơi chân Phật, đảnh lễ đức
Phật, và nói kệ khen ngợi như vầy:
"Lành thay đức Thế-Tôn
Con được làm thân người
Lại được nghe mật
pháp
Của chư Phật ba đời
Thế-Tôn là tối
thắng
Sư-tử trong dòng Thích
Thật là Đại Y-vương
Đủ phương thuốc nhiệm
mầu
Dứt hẳn khổ sanh tử
Giúp hết thảy chúng
sanh
Xa lìa ba đường ác
Chứng cái vui Niết-bàn
Nơi cõi
Phật thanh tịnh
Nay con chuyên một lòng
Luôn xưng
niệm danh hiệu
Đức Phật A-Di-Đà
Nguyện cùng
các chúng sanh
Vãng sanh nước
Cực-Lạc".
Trưởng-giả Diệu-Nguyệt
lại quán sát tâm niệm của đại chúng, những vị Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ và Trời, Rồng, Quỷ, Thần. Biết tâm
niệm của đại chúng vẫn còn nghi ngờ, chưa hiểu thấu lời dạy
của Như-Lai, nên Trưởng-giả đi đến trước Phật, chấp tay cung
kính thưa:
- "Bạch đức
Thế-Tôn, nay con do nơi năng lực vĩ đại của Bổn
Nguyện đức Phật A-Di-Đà mà được tham dự pháp
hội nầy, được đích thân nhận lãnh lời giáo huấn của Như-Lai. Cho
nên, con sẵn sàng đặt trọn tín tâm nơi Như-Lai,
nơi giáo pháp vi diệu hi hữu nầy. Nhưng, các chúng
sanh vào thời kỳ Chánh pháp diệt tận, thì các căn lành cạn
mỏng, phước đức thiếu kém, tri kiến bị si mê che
lấp, kinh điển tuy còn sót ít nhiều nhưng chẳng có ai hiểu
đúng lời Phật dạy. Do đó làm sao tin nhận giáo nghĩa uyên
áo, bí mật nầy để thẳng bước tiến tu, mau thành
Phật Trí.
Hôm nay, con thay
vì hiện tiền đại chúng cũng như tất cả thiện nam, tín
nữ trong thời vị lai, mà khẩn cầu đức Thế-Tôn giải
thích cho chúng con được rõ.
Bạch đức Thế-Tôn, con
thường tin và nghĩ rằng Niệm Phật tức là thành
Phật ngay trong đời nầy. Thế thì tại sao hôm nay đức Thế-Tôn
lại ân cần khuyên bảo chúng con phải phát nguyện vãng
sanh Cực-Lạc quốc độ ở Tây phương ?"
Khi ấy, đức
Thích-Ca mỉm cười, giơ cao cánh tay hữu, lấy bàn tay xoa trên đỉnh đầu của
Trưởng-giả Diệu-Nguyệt, mà nói lời nầy:
- "Hay thay ! Hay
thay ! Diệu-Nguyệt cư sĩ, đây là pháp khó tin, khó hiểu bậc nhất mà
Như-Lai chưa từng nói. Đây là pháp tối thượng Nhứt thừa, chứa
đựng vô lượng vô biên ý nghĩa vi diệu mà Như-Lai đợi
đến đúng lúc, đúng thời mới ban cho, tự như hoa
Ưu-đàm-bát-la mấy muôn ngàn năm mới nở một lần. Đây là Tạng Pháp bí
mật của chư Phật ba đời, ví như viên bảo
châu trên búi tóc Luân-vương không thể khinh xuất giao cho người khác. Mà
Như-Lai chỉ truyền giao cho bất cứ chúng sanh nào quyết
chí hoàn thành địa vị Thiên Nhân Sư, tiếp nối hạt
giống Bồ-đề.
Nầy Diệu-Nguyệt cư
sĩ, nay ta dùng cặp mắt toàn giác để quan
sát Tâm hiện tiền của chúng sanh, thì thấy rõ bản
chất của cái Tâm ấy gọi là Tâm-thể, Tâm thể ấy vốn không
có hình dáng, tướng mạo, không có sắc chất, không dài, không ngắn,
không quá khứ, không hiện tại, không vị lai, không dữ, không
lành, không sanh, không diệt, cũng chẳng phi sanh diệt. Tâm-thể ấy luôn
luôn xa rời tất cả luận giải của thế gian. Do vì Tâm-thể nhơ bẩn
mà chúng sanh mãi luân chuyển trong ba cõi, sáu
đường, đời đời chịu khổ. Do vì Tâm-thể ấy trở nên thanh tịnh,
mà chúng sanh được thành tựu giới, định, huệ, giải
thoát, giải thoát tri kiến, đắc quả A-la-hán ... nhẫn
đến địa vị Phật Đà.
Bởi duyên với các pháp
ác, mà Tâm-thể ấy tạo ra cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh, trời, người, A-tu-la nhẫn đến chìm trôi triền miên bất tận nơi
những cõi khổ khắp mười phương. Bởi duyên với các pháp lành mà Tâm-thể ấy
tạo ra cảnh giới Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ
thiền v.v...
Lại nữa, do vọng
niệm tương tục nối nhau không dứt, mà biến hiện đủ loại hình
tướng, sắc thân, thọ mạng, ẩm thực, quyến thuộc, phiền
não để hưởng dụng trong các cảnh giới kia. Hoặc cam chịu những quả
báo khổ lạc do những nhân tố sai biệt. Đời đời như thế mãi,
chưa lúc nào tạm ngừng nghỉ.
Nầy Diệu-Nguyệt cư
sĩ, nên biết rằng danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật chính là Pháp-thân
Viên-mãn Chu-biến Nhất-thiết-xứ, là Phật-tánh thậm thâm có đầy đủ
mọi năng lực vô úy bất khả tư nghị, có đầy đủ diệu
dụng vô ngại bất tư nghị. Là cứu cánh siêu việt tối
thượng, có đầy đủ năng lực bất khả thuyết, bất khả
xưng tán, để chuyển hóa vô minh thành ra giác
ngộ, sinh tử thành Niết-bàn. Là phương tiện vi
diệu bật nhất, thường cải biến hết thảy Sở-y và Sở-hành của mọi chúng
sanh, đưa tất cả tướng trạng hữu lậu, trói buộc, trở về với
Bản-tánh Vô-lậu, Giải-thoát.
Cho nên, nếu chúng
sanh nào đem Tâm-thể của mình mà duyên với danh hiệu Nam-Mô
A-Di-Đà Phật, thì Tâm-thể của người ấy dần dần trở
nên vô cấu nhiễm, dần dần phát sanh vô lượng vô
biên đức tướng Như-Lai. Do vậy, tự nhiên thấy mình ở
trong thế giới Cực-Lạc trang nghiêm, thù thắng. Cùng một lúc,
cái niệm tưởng Nam-mô A-Di-Đà Phật sẽ phát khởi thân
lượng, oai nghi, tướng hảo và quang minh của đức
A-Di-Đà cùng chư vị Thánh-chúng.
Nầy Diệu-Nguyệt cư
sĩ, người ở nơi ý nghĩa ấy phải nên hiểu rõ như thế !
Pháp môn Niệm
Phật chính là là chuyển biến cái Tâm-thể của chúng
sanh, bằng cách không để cho Tâm-thể ấy duyên với vọng niệm, với lục
trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp, với huyễn cảnh,
với trí lực, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân
biệt v.v... Mà chỉ đem Tâm-thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam-mô
A-Di-Đà Phật. Không bao lâu, người niệm Phật tự nhiên đi
vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc cảm
ứng với nguyện lực của đức A-Di-Đà, thấy mình sanh vào cõi nước
Cực-Lạc, thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ-Tát nói
pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đảnh ...
Lại nữa Diệu-Nguyệt, nếu
có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, thì uy lực bất khả tư
nghị của danh hiệu khiến cho Tâm-thể thanh
tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự
nhiên chứng nhập Sơ-phần Pháp-thân, âm thầm ứng hợp với BI
TRÍ TRANG NGHIÊM của Phật - nhưng chưa thể đắc Tam-minh,
Lục-thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô lượng Tam-muội, nhẫn đến
chưa thể đắc Nhất-thiết Chủng-trí, chẳng thể đồng đẳng với chư Phật được mà
chỉ thành tựu bước đầu tiên trên lộ trình Như-Thật-Đạo.
Thí dụ như làm gạch
để xây nhà vậy. Tuy đã nhào trộn đất sét, bỏ vô khuôn và đã đúc ra hình dạng
của viên gạch. Nhưng muốn viên gạch được bền lâu, chắc chắn, không hư
rã, chịu được nắng chói mưa sa, thì cần phải đưa vào lò lửa nung đốt
một hạn kỳ. Người niệm Phật cũng lại như thế.
Tuy công phu niệm Phật trong hiện kiếp đã đặt nền
tảng vững vàng cho sự nghiệp giải thoát, nhưng sau đó
phải vãng sanh Tịnh-độ, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật
và Thánh-chúng cho tới khi thành tựu Vô-sanh Pháp-nhẫn. Sau đó, mới
đủ năng lực hiện thân khắp mười phương hành Bồ-Tát
đạo, ra vào sanh tử mà không trói buộc, trở lại chốn
ác trược mà chẳng nhiễm ô, cứu độ chúng sanh không có hạn
lượng.
Thí dụ như việc
khắc họa hình tượng. Tuy đã dùng gỗ tốt đẽo gọt lâu ngày và tạo nên hình
dáng con người. Nhưng phải bỏ ra một thời gian lâu xa
để chạm trổ thêm mắt, tay, miệng, nét mặt, nếp nhăn, dáng vẻ, bộ
tịch, thần sắc ... Người niệm Phật cũng lại như
thế. Tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh, và công
phu không gián đoạn, bê trễ, nhưng nếu tái sanh cõi Ta-bà
thì vẫn bị luân chuyển vì Định Huệ còn non kém, quả
đức chưa hoàn mãn. Cần phải vãng sanh Cực-Lạc thế
giới, cận kề Phật và Thánh-chúng, thành tựu vô lượng Ba-la-mật thâm
nhập Tam-muội Tổng-trì-môn, phát hoằng thệ nguyện đi
khắp mười phương giáo hóa vô số chúng sanh. Không lâu, lấy cỏ
rãi nơi Bồ-đề đạo-tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng-chánh-giác,
Chuyển-pháp-luân Vô-thượng.
Diệu-Nguyệt cư sĩ,
nên biết rằng được vãng sanh Cực-Lạc thì không bao
giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ
uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất-thối-chuyển. Từ đó về sau, dần
dần thành tựu mười thứ Trí-lực, mười tám pháp Bất-cộng, năm
nhãn, sáu thông, vô lượng Đà-ra-ni, vô
số Tam-muội, thần thông du hí, biện tài vô ngại ...
đầy đủ bao nhiêu công đức vô lậu của Đại Bồ-Tát, cho
đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy
mà Ta, Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn hôm nay trân trọng xác
quyết rằng : VÃNG SANH ĐỔNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT,
VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT.
Muốn vãng
sanh Cực-Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ.
Vì danh hiệu chính là biểu tướng của Pháp Thân cho nên
niệm danh hiệu tức là niệm Pháp Thân Phật vậy. Và
người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay
nơi danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô
lượng vô biên công đức, vô lượng vô biên diệu
dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy
lực ... không thể nghĩ bàn".
Diệu-Nguyệt Trưởng-giả
lại thưa rằng:
- "Bạch đức
Thế-Tôn, tuy con đã thấu triệt nghĩa lý thâm diệu của
pháp niệm Phật, nhưng vẫn khẩn cầu đức Thế-Tôn thương xót mà rộng
chỉ bày thêm, để hết thảy chúng sanh nơi đời vị lai được
mọi điều lợi ích.
- Bạch đức Thế-Tôn,
phải niệm Phật như thế nào mới gọi là đắc pháp ? Phải dấy
khởi những tâm thái nào mà tu tập mới được vãng
sanh Cực-Lạc ?"
Đức Phật dạy rằng:
"Nầy
Diệu-Nguyệt cư sĩ, thế nòa là niệm Phật Chân Chánh ?
Muốn niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc
chắn vãng sanh, thì người niệm Phật phải phát
khởi Mười Thứ Tâm Thù Thắng sau đây:
1. Tín Tâm
2. Thâm Trọng Tâm
3. Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm
4. Xả Ly Tâm
5. An Ổn Tâm
6. Đà Ra Ni Tâm
7. Hộ Giới Tâm
8. Ba La Mật Tâm
9. Bình Đẳng Tâm
10. Phổ Hiền Tâm
1-. Thế Nào Gọi Tín
Tâm ?
- "Nầy
Diệu-Nguyệt, Tín Tâm nghĩa là lòng tin chân thật, tha
thiết, bền vững. Là nhân tố quyết định thành Phật, là nhân
tố quyết định thâm nhập cảnh giới Đại-thừa. Bởi vì sao ?
Vì lòng tin là mẹ đẻ của tất cả công đức vô lậu, lòng
tin là cửa ngõ nhiệm mầu đưa chúng sanh về nơi kho báu Phật
Pháp. Cho nên, việc trưởng dưỡng Tín Căn vẫn là điều thiết yếu
nhất trong hết thảy mọi môn tu.
Trước hết là phải đặt
trọn lòng tin chân thật vào Lý Nhân Quả một
cách sâu chắc, kiên cố, và không hề nảy sanh một ý tưởng hoặc
một hành vi trái ngược với Lý Nhân Quả. Phải thấy hoạt dụng của
Lý Nhân Quả dung thông ba đời, đó là Quá khứ, Hiện
tại, Vị lai, rõ ràng như những đường chỉ, dọc ngang trên lòng
bàn tay.
Tin rằng kiếp
sống thế gian là Vô-thường, mạng người ngắn ngủi
như hơi thở ra vào, tất cả các pháp hữu vi đều
là huyễn hóa, không có chủ tể, niệm niệm sanh
diệt không ngừng, từng sát-na biến hoại chẳng nghỉ, tất cả
đều đưa tới khổ não, vô minh và trói buộc.
Tin rằng sáu nẻo
luân hồi thật là nguy hiểm chướng nạn, sơ
sẩy chỉ trong ý niệm cũng đủ đưa chúng sanh trầm
luân cả nghìn muôn ức kiếp. Một lần sa lạc vào ba
đường dữ thì không biết đến lúc nào mới thoát khỏi.
Tin rằng Phật
Pháp chính là đạo giải thoát an vui, đạo của Trí-Huệ, đạo của
Từ-Bi, đạo diệt khổ, đạo cứu vớt chúng sanh chẳng chừa một hạng
loại nào cả, đạo của Phật Tri Kiến, có đủ phương thuốc
nhiệm mầu trừ diệt tất cả các thứ bịnh tật của chúng sanh. Tin
rằng Tam-Bảo là chỗ về nương của muôn loài, là ngọn đèn phá tan
mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sanh qua thấu bờ bên
kia.
Tin rằng tất cả các pháp
đều do Tâm-thể của mình tạo ra. Từ ba
đời mười phương chư Phật nhẫn đến tứ thánh, lục phàm, đều
do cái Tâm-thể lưu xuất và biến hiện. Tin rằng cõi Cực-Lạc cũng chỉ
do Tâm-thể thanh tịnh của chúng sanh tạo ra, cùng tương
ứng với Bổn Nguyện Vĩ Đại của Phật, Bồ-Tát, Thánh-chúng. Và tinh rằng đức
A-Di-Đà chỉ là do sự niệm tưởng danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật
phát khởi lên.
Tin rằng mỗi
mỗi chúng sanh đều có đủ năng lực lãnh thọ giáo
pháp Như-Lai, bất cứ hữu tình nào cũng có năng
lực hoàn thành địa vị Nhứt-thiết Chủng-trí như chư Phật.
Tin rằng bản
nguyện của Phật A-Di-Đà là chân thật, rốt ráo, là tối
thắng. Và Ngài không hề bỏ sót một chúng
sanh nào cả, dù kẻ ấy phạm vào ngũ nghịch, thập ác v.v...
Tin rằng pháp niệm
Phật vãng sanh là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người,
vì rời môn tu này thì mọi người, mọi loài không thể giải thoát,
nếu phế bỏ môn tu này thì chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào
khác để tế độ hết thảy hữu tình đúng như bản thệ, đúng
như bản nguyện.
Diệu-Nguyệt
phải phát khởi tín tâm như vậy mà niệm Phật.
2-. Thế nào Gọi Là Thâm Trọng Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt,
Thâm Trọng Tâm nghĩa là đem tấm lòng sâu xa và cẩn
trọng mà cảm mộ ân đức của Tam-Bảo, tưởng nhớ công
lao của cha mẹ, thiện-tri-thức và của hết thảy chúng sanh.
Trong quá
khứ vô lượng vô biên na-do-tha vi trần kiếp, chư Phật
vì thương xót chúng sanh mà xả bỏ đầu, mắt, tay, chân, thân
mạng, tài sản, quyến thuộc ... để tìm cầu Chánh pháp, tu
Bồ-tát-đạo, giáo hóa muôn loài, làm cho ai nấy đều
được lợi ích. Đời đời kiếp kiếp, chư Phật hằng theo
dõi và thương tưởng đến mỗi một chúng sanh, luôn luôn tìm
cách nhổ bật gốc rễ tham ái, đập tan gômg cùm sanh tử, làm khô
cạn biển khổ vô minh, mãi phát tâm quảng đại, tâm kim cang,
tâm vô phân biệt mà rọi sáng lối về cho mọi hữu tình.
Vì thế mà người niệm Phật phải phát khởi cái tâm
chí sâu xa và cẩn trọng để tưởng niệm, cảm mộ ân
đức ấy.
Nhưng chư Phật
muốn tế độ tất cả chúng sanh, thì cũng phải lấy Chánh
pháp làm phương thuốc hữu hiệu trị dứt những bịnh tham ái, dùng Chánh
pháp làm thuyền bè đưa chúng sanh qua đến bờ giác ngộ,
dùng Chánh pháp làm tuệ kiếm chặt đứt mọi trăng
trói phiền não, làm ngọn đuốc dẫn dắt ra khỏi đêm dài vô minh, làm
chất đề hồ chữa lành mọi thứ sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, não,
dùng Chánh pháp làm đôi mắt cho chúng sanh nhìn
rõ Thật Tướng.
Người niệm
Phật phải biết cảm mộ ân đức cao dày của Chánh Pháp, phải
luôn luôn báo đáp ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh
điển Đại-thừa và giảng nói cho kẻ khác, khuyên bảo mọi người quy
y, bố thí, trì giới, thiền định. Khiến sao cho Chánh
pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian, ai
nấy đều được hưởng dụng cam lồ vị.
Dù đã phát
nguyện quy y Tam-Bảo, nhưng người trực tiếp khai sanh tánh
mạng tuệ giác ở nơi ta, chính là Thiện-tri-thức, gồm
có Thánh tăng, phàm tăng, Sư trưởng và các bạn đồng
tu, đồng học.
Thiện-tri-thức là cửa
ngõ xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì làm cho chúng
sanh đi vào Như-Thật-Đạo.
Thiện-tri-thức là cỗ
xe xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì đưa tất cả chúng sanh tới
Như-Lai địa.
Thiện-tri-thức là thuyền
bè xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì vận chuyển tất cả chúng
sanh đến bờ giác.
Thiện-tri-thức
là ngọn đèn xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì khiến chúng
sanh có được ánh sáng Phật Tri Kiến.
Thiện-tri-thức
là con đường xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì dẫn dắt chúng sanh vào
cửa thành Niết-bàn.
Thiện-tri-thức là cây
đuốc xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì làm cho chúng sanh thấy
rõ con đường yên lành hay hiểm trở.
Thiện-tri-thức là chiếc
cầu xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì tiễn đưa chúng
sanh qua khỏi chỗ hiểm ác.
Thiện-tri-thức là lọng
che xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì làm cho chúng sanh che núp
dưới bóng râm đại từ mát mẻ.
Thiện-tri-thức là cặp
mắt xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì khiến chúng sanh nhận
rõ Pháp tánh.
Thiện-tri-thức là thủy
triều xu hướng Nhứt-thiết-trí, vì làm cho chúng sanh đầy đủ
nước Đại Bi.
Kế đó, là ân
đức của cha mẹ, chín tháng cưu
mang, nhường khổ nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, quần áo chăn màn, nuôi con khôn
lớn, suốt đời tận tụy, đến chết chưa nguôi.
Và cuối
cùng là ân đức của chúng sanh, cung
ứng ẩm thực, y dược, tọa cụ, văn tự, tri kiến, bảo
hộ ...
Do vậy, người niệm
Phật phải lấy tâm chí sâu xa, cẩn trọng mà cảm
mộ ân đức thiện-tri-thức, cha mẹ, chúng sanh v.v...
Nhờ vậy mà từ bi dần dần nẩy nở, ngọn lửa trí
tuệ từ từ bừng cháy, môn tu niệm Phật mới dễ dàng thành
tựu.
3-. Thế Nào Gọi
Là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm ?
Nầy
Diệu-Nguyệt, Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm nghĩa là dấy động cái tâm
chí như thế nầy: Không riêng gì bản thân mà cấu xuất
ly Ta-bà loạn trược, khổ não. Trái lại, phải nguyện vì hết
thảy chúng sanh khắp ba cõi sáu đường mà cầu vãng
sanh Cực-Lạc, chóng thành tựu Phật đạo để tế
độ quần mê. Tại sao vậy ? Vì muốn có
cái quả đức siêu việt tối thượng thì phải phát
khởi cái tâm chí quảng đại, dũng mãnh. Người Niệm
Phật nếu đem cái tâm thái hời hợt, hẹp hòi, yếu hèn, chỉ riêng
vì giải thoát bản thân, thì chẳng bao lâu sẽ chiêu
cảm cái quả báo nhỏ bé, nông cạn, tầm thường, không xứng
hợp với Bản-hoài chư Phật, chẳng tương ứng cùng Bản-nguyện
vĩ đại Bi Trí Viên Mãn của Phật A-Di-Đà. Cho nên khó
được tiếp dẫn về nơi cõi nước Tây-phương.
Lại nữa, người Niệm
Phật còn phải đem tất cả công đức thực hành Sáu Ba-la-mật,
Bốn Nhiếp-pháp, Bốn Vô-lượng-tâm hoặc Ba mươi bảy Phẩm-trợ-đạo ... mà hồi
hướng khắp anh em, cha mẹ, bằng hữu, chư thiên, chư tiên,
bốn loại chúng sanh kẻ oán người thân đều được an trụ trong hồng
danh Nam-mô A-Di-Đà Phật.
4-. Thế Nào Gọi Là Xả Ly
Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt, người Niệm
Phật trong khi xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật,
phải phát khởi cái Tâm thái lìa bỏ tất cả. Sao
gọi là lìa bỏ ? Lìa bỏ nghĩa là không trụ tướng mà niệm
Phật, không nắm giữ mà niệm Phật, không tương ưng mà niệm
Phật, không đối đãi mà niệm Phật, không chống trái mà niệm
Phật, không cầu mong mà niệm Phật, không nhiễm
duyên mà niệm Phật như thế gọi là lìa bỏ.
Người niệm
Phật chỉ buộc tâm và ý vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe,
mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Quên cả thân, quên cả cảnh, quên
cả cái ý thức tự biết Ta đang niệm Phật. Như thế mới gọi
là lìa bỏ.
Lìa bỏ khổ, tập,
diệt, đạo mà niệm Phật.
Lìa bỏ sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp mà niệm Phật.
Lìa bỏ bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí
tuệ mà niệm Phật.
Lìa bỏ tín
giải, hành chứng mà niệm Phật.
Lìa bỏ từ
bi, hỷ xả mà niệm Phật.
Lìa
bỏ không, vô thường, vô ngã mà niệm Phật.
Lìa bỏ bồ
đề, niết bàn, giải thoát, giải thoát tri kiến, mà niệm
Phật.
Lìa bỏ tất cả
các pháp hữu vi, tất cả các pháp vô vi mà niệm Phật.
Lìa bỏ ngã và ngã
sở.
Lìa bỏ luôn
cả ý tưởng cầu mong vãng sanh, chí nguyện độ
sanh, ý hướng thành Phật mà niệm Phật.
Niệm Phật với tâm
Xả Ly như thế, mới được gọi là chân chánh niệm Phật
5-. Thế Nào Gọi Là AN ỔN Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt,
người Niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu Nam-mô
A-Di-Đà Phật phải phát khởi tâm chí bất động, kiên cố,
không thoát chuyển. Do đó gọi là AN ỔN Tâm.
Mình an trụ nơi
Bồ-đề-tâm, cũng phải giúp người khác an trụ Bồ-đề-tâm, nên tâm được an ổn.
Mình rốt ráo, xa rời giận hờn tranh cãi, cũng phải khiến người
khác nhẫn nhục nhu hòa nên tâm được an ổn. Mình buông
bỏ pháp phàm phu điên đảo, cũng phải đưa người khác tới địa
vị Thánh giả siêu việt nên tâm được an ổn. Mình
siêng tu thiện căn vô lậu thú thướng Niết-bàn, cũng phải
khiến người khác hủy diệt hết mạng lưới hữu lậu trói buộc, nên tâm
được an ổn.
Mình đang sanh ra tại
nhà Phật, cũng phải dẫn dắt người khác vượt thoát hố hầm dục lạc trở
về bảo sở, nên tâm được an ổn. Mình thâm nhập pháp
chân thật không tự tính, cũng nên giúp người khác chê chán huyễn
tướng lầm mê, nên tâm được an ổn. Mình cảm
ứng Trí-Tạng vô tận của Như-Lai, cũng khiến người khác thâm
nhập Pháp Giới Bình Đẳng, nên tâm được an ổn.
Niệm Phật với
tâm thái an ổn như vậy, mới gọi là chân chính niệm Phật.
6-. Thế Nào Gọi Là
Đà-Ra-Ni Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt, người Niệm
Phật phải phát khởi tâm chí nắm giữ tất cả các thiện
pháp, đồng thời che lấp tất cả các ác pháp. Đó gọi là
Đà-ra-ni Tâm. Như là:
Tín Tâm Đà-ra-ni, vì
đặt trọn lòng tin thuần phác, trong suốt, nơi Bản-nguyện
của đức Phật A-Di-Đà cùng sự hộ niệm của chư Phật
ở mười phương.
Chánh
Kiến Đà-ra-ni, vì đúng như
thật quán sát khéo léo tất cả các pháp đang diễn biến trong tâm và
ngoài thân.
Tư Duy Đà-ra-ni,
vì thường xuyên thấu triệt thể tánh của tất cả các
pháp sinh khởi trong từng sát-na hoại diệt.
Cảm Ứng Đà-ra-ni, vì
luôn luôn thâm nhập tất cả bản nguyện chư Phật.
Hỷ Lạc Đà-ra-ni, vì
an trụ nơi lực tiếp dẫn chư Phật và Thánh-chúng.
Tam Thế Đà-ra-ni, vì
tự an nhiên giữa cảnh tượng của nhân quả tương
tục trong ba đời, cũng như thông suốt nghĩa lý Phật
pháp của Tam thế chư Phật.
Tam muội Đà-ra-ni, vì
an trụ trong danh hiệu bất tư nghị nên nghe thấy điều phi
pháp mà tâm chẳng loạn, sống nơi cảnh loạn trược mà không trôi lăn.
Niệm Phật với
Đà-ra-ni như vậy, mới được gọi là chân chánh niệm Phật.
7-. Thế Nào Gọi Là Hộ
Giới Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt, người Niệm
Phật phải luôn luôn an trụ nơi giới luật, và hằng phát
tâm hộ trì giới luật. Ấy là:
Giới chẳng bỏ
Bồ-đề-tâm, chẳng quên Bồ-đề-nguyện.
Giới
tự nhiên xa lìa các phép học của Thanh-văn, Duyên-giác không
tham đắm Niết-bàn vắng lặng mà bỏ rơi chúng sanh.
Giới hân ngưỡng
Đại-thừa, vui thích tu hành theo tất cả pháp học Bồ-tát-đạo.
Giới đem hết
thảy thiện căn hồi hướng quả vị Chánh-Đẳng-Giác, mong
cầu Phật-trí, Vô-sư-trí.
Giới nơi tất
cả Phật pháp vô-sở-đắc.
Giới chẳng dính mắc tất
cả thiện sự hữu vi.
Giới khiến cho diệu
pháp được tồn tại lâu dài, làm cho hết
thảy chúng sanh an trụ nơi Chánh Kiến.
Giới khéo léo tư
duy tất cả hành nghiệp chúng sanh và
khiến chúng sanh trưởng dưỡng ý hướng giải thoát.
Giới trang nghiêm
tự tâm đồng thời trang nghiêm mười phương quốc
độ của chư Phật.
Giới chư
căn Luật nghi, như Tỳ-kheo giới,
Bồ-Tát giới, Ngũ giới tại gia v.v...
Niệm Phật với
tâm hộ trì các giới luật kể trên, mới được gọi là
chân chánh niệm Phật.
8-. Thế Nào Gọi Là
Ba-la-mật Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt, người niệm
Phật phải phát động tâm chí tu trì những thứ Ba-la-mật sau
đây:
Thí Ba-la-mật, vì xả
bỏ tất cả sỡ hữu trong thân cũng như ngoài thân, không lẫn tiếc.
Giới Ba-la-mật, vì thanh
tịnh các cõi Phật.
Nhẫn Ba-la-mật, vì
an trụ nơi lực dụng của Bản-nguyện.
Tinh-tấn Ba-la-mật, vì
tất cả chướng duyên chẳng có thể làm thối chuyển tín tâm.
Thiền-định
Ba-la-mật, vì chuyên nhất nhớ tưởng một cõi Phật,
một danh hiệu Phật.
Bát-nhã Ba-la-mật, vì
đúng như thật mà quán sát tất cả tướng trạng và thể
tánh của các pháp không rời nhau.
Tín Ba-la-mật, vì thường
xuyên an trụ nơi Phật lực bất tư nghị.
Nguyện Ba-la-mật, vì
đầy đủ những hạnh nguyện của Phổ-Hiền.
Lực Ba-la-mật, vì hân
hoan thể hiện tất cả năng lực tự tại của danh
hiệu Nam mô A-Di-Đà Phật.
Pháp Ba-la-mật, vì
sẵn sàng xả thân cho Chánh Pháp, cho Bồ-Tát đạo.
Niệm Phật với những
thứ Ba-la-mật ấy, mới được gọi là chân chánh niệm Phật.
9-. Thế Nào Gọi
Là Bình Đẳng Tâm ?
Nầy Diệu-Nguyệt, người niệm
Phật phải luôn luôn thực hiện tâm thái bình đẳng,
không phân biệt, không ngăn ngại. Nghĩa là:
Tự -tha Bình-đẳng, vì
luôn mở rộng tuệ nhãn để nhận hiểu mình và người đều bình
đẳng trước lực nhiếp thọ của chư Phật, chư Bồ-Tát.
Chủng loại Bình-đẳng, vì
thường quán sát mười phương thế giới các loại chúng
sanh từ sắc thân, hình trạng, tướng mạo, tộc tánh, thọ
lượng, tri kiến, ý hành, sở ý ... mà không khởi tâm phân
biệt, đối đãi, ái thủ hoặc yếm hoạn.
Chúng sanh
giới Bình-đẳng, vì liên
tục mở bày pháp giới trí trụ vô động tế, mà tự
tại giữa những huyễn hóa biến dị của các loại hữu
tình nơi ba cõi thế gian.
Pháp
giới Bình-đẳng, vì thường
xuyên an trụ nơi vô tướng khép vào pháp tướng, không
móng khởi tâm sợ sệt trước thời gian vô cùng, không
gian vô tận. Tự tại giữa một sát na như vô
lượng vô biên đại kiếp. An nhiên giữa các cực
vi đầu sợi lông, cũng như du hí mười phương trần sát hằng
hà sa các quốc độ.
Không
tánh Bình-đẳng, vì luôn
luôn ức niệm mình được sản sanh từ nhà Như-Lai, được Tự
Tánh Thanh Tịnh Tạng, thấy rõ nhất thiết pháp Không, đắc Hư
Không Hạnh vô ngại, giải ngộ và cảm ứng Tánh
Không Bình Đẳng nơi hết thảy tứ sanh cửu hữu.
Phật độ Bình-đẳng, vì
hằng quán tưởng các cõi Thường-Tịch-Quang, Thật-Báo Trang-Nghiêm,
hoặc Phương-Tiện Hữu-Dư v.v... đều không ngăn ngại nhau, không riêng khác,
tuy an lập Hoa-Tạng Thế-Giới Hải mà chẳng rời Tự Tâm, Thật
Tế Trụ Địa vô phương sở, vô trụ xứ ... tùy
theo tâm lượng và sở nguyện của chúng
sanh mà hiển hiện. Như hoa đốm, như tiếng vang, như bọt
sóng, như bóng nước, như cầu vồng, như huyễn nhân kể chuyện mộng.
Tín tâm Bình-đẳng, vì tín
tâm vốn khởi nguyên từ Bát-nhã đức, từ Trí-tạng quảng đại ,từ
Phổ-nhãn thanh tịnh thông suốt cả ba đời, nên được thu
nhiếp trong Bản-nguyện vô lượng đức, vô biên lực dụng của
chư Phật.
Niệm Phật với
những tâm bình đẳng nêu trên, mới được gọi là chân chánh
niệm Phật.
10-. Thế Nào Gọi
Là Phổ Hiền Tâm ?
Phổ nghĩa là
không bỏ rơi chúng sanh, Hiền nghĩa là chẳng xa cách quả
vị Chánh-Đẳng-Giác. Phổ Hiền Tâm là tâm rộng lớn như hư
không, luôn mong cầu độ thoát hết thảy chúng sanh.
Tâm vô biên như
pháp tánh luôn hân ngưỡng, thừa sự và cúng dường chư
Phật.
Tâm vô lượng, thọ
trì tất cả Phật pháp chẳng quên mất.
Tâm vô hạn vì
được Phật lực hộ trì nên chẳng bỏ Bồ-đề-hạnh.
Tâm thí xả hết
thảy, vì saün sàng buông lìa tất cả sở hữu, dẫu là pháp vô sở đắc.
Tâm nghĩ nhớ đạo Nhứt-thiết-trí trước hết, vì ham thích mong cầu tất
cả Phật pháp.
Tâm vô tận công
đức trang nghiêm vì học hỏi tất cả hạnh nguyện Bồ-Tát.
Tâm kiên cố như
kim-cang vì tất cả bạch tịnh pháp đều chảy vào.
Tâm như Tu-di sơn vì
tất cả ác ngôn đều nhẫn thọ.
Tâm Bát-nhã
ba-la-mật cứu cánh, vì khéo quán sát tất cả pháp vô
sở hữu.
Tâm đại
hùng, đại lực để niệm
Phật bất thối chuyển.
Tâm đại uy nghi vô
tận công đức trang nghiêm, vì tùy thuận bản nguyện lực.
Tâm vô
cấu nhiễm thường thanh tịnh Phật quốc độ
để thành tựu Vô-thượng Bồ-đề.
Tâm tinh tấn như tượng
vương khéo điều phục dã thú, để sớm viên mãn hạnh
nguyện Phổ-Hiền.
Người niệm
Phật siêng năng trưởng dưỡng Phổ-Hiền tâm như vậy, mới được gọi
là niệm Phật chân chánh, thường được chư Phật hộ niệm, hiện
đời luôn thấy Phật cùng y báo trang nghiêm của cõi Cực-Lạc.
PHẨM
THỨ BA
NIỆM
PHẬT CÔNG ĐỨC
PHẦN CHÁNH TÔNG
NIỆM
PHẬT TAM MUỘI
THÌ TỰ
NHIÊN THÀNH TỰU 10 TÂM THÙ THẮNG
Gọi
Là “NHỨT THIẾT PHẬT ĐỘ THỂ TÁNH”
Lúc bấy giờ, ngài
Phổ-Hiền Bồ-Tát liền nhập Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh Tam Muội,
tất cả Bồ-Tát và đại chúng đều thấy thân mình ở trong thân của
Phổ-Hiền Bồ-Tát. Lại thấy rõ cõi nước Cực-Lạc vô lượng vô
biên sự trang nghiêm, và tự nhiên thấy mình đang trụ trong cảnh
giới vi diệu thù thắng ấy. Thấy đức A-Di-Đà đang ngự trước
mặt mình. Thân tướng của đức A-Di-Đà cao lớn khôn
cùng, hình dáng ngời sáng chói sắc vàng diêm-phù-đàn. Lông trắng
chặng giữa chân mày thì uyển chuyển xoáy tròn về bên hữu, như năm ngọn núi
Tu-Di. Đôi mắt trắng và xanh biếc như bốn biển lớn. Các lỗ chân lông nơi thân
đều phóng hào quang sáng sạch, chiếu soi muôn nghìn cõi nước ở
khắp mười phương. Mỗi mỗi hào quang thường che chở,
và nhiếp thọ những chúng sanh niệm Phật.
Lại thấy toàn cõi Cực-Lạc
hiện trong thân mình, mặt đất bằng lưu ly trong suốt, rạng
rỡ. Bảo thọ, bảo đài, liên trì, bảo lâu, bảo tòa ...
mỗi mỗi nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha le, xa
cừ, trân châu, mã não. Chư thượng thiện nhân đều
do hoa sen hóa sanh, ai nấy đầy đủ ba mươi hai tướng
hảo, thọ dụng y thực tự nhiên thuần pháp hỷ
thực và thiền duyệt thực. Tất cả đều ngồi trên tòa báu lắng
nghe đức Phật cùng Bồ-Tát thuyết pháp. Những sự việc trang
nghiêm bất khả tư nghị như vậy, dẫu đến ức kiếp kể cũng
không cùng tận.
Hiện thần
lực như thế rồi, ngài Phổ-Hiền bèn ra khỏi Nhứt Thiết Phật
Độ Thể Tánh Tam Muội, làm cho đại chúng trở lại như
cũ.
Bấy giờ đại
chúng được thấy sự chưa từng có, cho là rất đặc biệt lạ
lùng, ngồi yên lặng nhất tâm chiêm ngưỡng. Lúc ấy,
Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu chấp tay bạch rằng:
- "Thưa Đại-sĩ, nay
Tam-muội nầy thật vô cùng hi hữu, có uy lực lớn,
có công năng bất tư nghị, vậy tên gọi của Tam-muội ấy là gì ?"
Phổ-Hiền Bồ-Tát nói:
- "Tam-muội nầy gọi
là Nhứt Thiết Phật Độ Thể Tánh còn gọi là Niệm Phật Tam
Muội. Do công đức xưng niệm danh hiệu Phật tạo thành, hoặc
là kết quả tự nhiên của mười tâm thù thắng.
Nầy Phật tử, nay
tôi nương thần lực và lòng đại bi vô hạn lượng của đức
Phật Thích-Ca Mâu-Ni, mà tuyên thuyết Công Đức Bất Khả
Xưng Tán của sự chấp trì danh hiệu Phật.
Mười thứ tâm thù
thắng ấy, thật ra vừa là nhân vừa là quả. Nhân cùng quả thì không bao giờ
rời nhau. Người tu môn niệm Phật thì phải đề khởi mười thứ
tâm thù thắng, mới nhanh chóng thâm nhập Niệm
Phật Tam-muội, hiện bày cảnh giới Cực-Lạc. Hoặc ngược lại, người
đặt trọn tín tâm nơi Bản-nguyện và cả đời chuyên
nhất xưng niệm danh hiệu Phật, thì dần dần đi
vào Niệm Phật Tam-muội, tự nhiên thành tựu mười thứ
tâm thù thắng nói trên.
Tại sao vậy ?
Nầy Phật
tử hãy chăm chú lắng nghe, tôi sẽ giải thích tường tận.
Danh hiệu Nam-mô
A-Di-Đà Phật vốn đầy đủ vô lượng vô biên hằng hà sa công
đức, vô lượng vô biên hằng hà sa ý nghĩa, vô
lượng vô biên hằng hà sa lực dụng, cứu cánh, cảnh
giới, giác tánh ... dẫu trăm ngàn muôn ức na-do-tha vi
trần đại kiếp, cũng không thể diễn nói hết được. Nay vì chúng
sanh nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, mà tôi sẽ lược nói,
để chúng sanh thu hoạch nhiều lợi ích.
Nầy Phật tử !
Nam-mô A-Di-Đà Phật nghĩa là gì ?
Nam-mô là thủy giác.
A-Di-Đà là tương tục giác, Phật là bản giác.
Nam-mô là năng niệm,
A-Di-Đà là tương tục niệm, Phật là sở niệm.
Nam-mô là giới
luật, A-Di-Đà là thiền định, Phật là trí tuệ.
Nam-mô là thế
gian giới, A-Di-Đà là pháp giới, Phật là vô sai
biệt giới, vô sở hữu cảnh giới, vô trụ xứ cảnh
giới.
Nam-mô là thường,
A-Di-Đà là tịch, Phật là quang.
Nam-mô là diệu quan
sát trí, A-Di-Đà là bình đẳng tánh trí, Phật là đại viên cảnh
trí, vô tận sở hữu trí.
Nam-mô là phi hữu,
A-Di-Đà là phi vô, Phật là không tánh, phi hữu vô
định tánh.
Nam-mô là như thực hữu,
A-Di-Đà là như thực không, Phật là như thực bất không.
Nam-mô là sai
biệt trí, A-Di-Đà là vô sai biệt trí, và Phật là pháp
hải tuệ công đức vô tận tạng viên mãn trí.
Nam-mô là phương
tiện lực, A-Di-Đà là cứu cánh lực, và Phật là dung
thông phương tiện siêu việt cứu cánh lực.
Nam-mô là ly trần,
A-Di-Đà là ly căn, Phật là ly thức.
Nam-mô là chuyển
y tạng, A-Di-Đà là vô tận thiện căn tạng, Phật
là quyết định chính giác tạng.
Nam-mô là ly cẩn tạng,
A-Di-Đà là niết bàn tạng, Phật là như huyễn giải thoát
tạng.
Nam-mô là trang
nghiêm Phật quốc độ, A-Di-Đà là thành tựu vô biên Phật
quốc độ, Phật là như huyễn thập phương Hoa Tạng Thế
Giới Hải.
Nam-mô là gia trì
lực, A-Di-Đà là tiếp dẫn lực, Phật là tự tánh tương
ưng nhiếp thọ lực.
Nam-mô là khai
thị vô lượng trí, A-Di-Đà là thâm nhập chính giác trí,
Phật là quang minh phổ chiếu trí.
Nam-mô là thế gian
giải, A-Di-Đà là giác ngộ giải, Phật là nhất thiết trí biến
chiếu thập phương viên mãn giải.
Nầy Phật
tử, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật có vô lượng vô
biên bất khả thuyết ý nghĩa thâm mật vi diệu như thế,
dẫu ba đời mười phương chư Phật diễn nói cũng không cùng
tận.
Lại nữa, không
thể chấp trước nơi ngữ ngôn, văn tự, âm
thanh, tri kiến, biện luận ... mà bảo rằng danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà là hữu niệm hoặc vô niệm. Vì sao vậy ?
Bởi vì danh hiệu ấy chính là không tánh, là vô sở đắc,
là vô sở ý, vô cấu nhiễm, là vô sở tương ưng,
là vô sở bội nghịch, vô công dụng hạnh, là vô sở cầu
hạnh.
Lại nữa, không
thể chấp trước nơi hình thái tu tập, chỗ dụng công,
hoặc phương tiện biểu hiện, qui tắc hành trì, mà cho
rằng danh hiệu ấy là hữu định tánh hay vô
định tính. Vì sao vậy ? Bởi vì danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật
chính là vô tận tạng, hư không tạng, Đà-ra-ni tạng, giải thâm-mật
cục-túc tạng ...
Lại nữa, không
thể chấp trước vào ý nguyện vãng sanh, tâm thái mong
cầu Phật lực, hoặc an trú bản nguyện lực, hay sự phát
tâm bồ đề quảng đại ... mà cho rằng danh hiệu Nam-mô
A-Di-Đà Phật là hữu thú hướng hoặc vô thú hướng. Vì sao vậy ? Bởi vì danh
hiệu ấy, chính là tịch tịnh tạng, thanh tịnh vi
diệu tạng, minh triệt tạng, là trần tạng, là thức tạng, là cấu tạng
...
Lại nữa, không
thể chấp trước vào cách thức trì niệm, vào nghi tắc lễ
bái cúng dường, vào sự khẩn thiết xưng tán, sám
hối hoặc tâm chí tùy hỷ công đức của hành
giả niệm Phật mà cho rằng danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật
là hữu sở y hay vô sở y. Vì sao vậy ? Bởi vì danh
hiệu ấy chính là khả ái nhạo tạng, là ly chủng chủng trần
cấu tạng, là ly uẩn tạng, là vô chướng ngại tạng, là vô
tận công đức tạng ... vô tận thiện căn tạng,
là niết bàn tạng, là như huyễn tam muội vô vi tạng,
là thành tựu Phật độ tạng, là quyết định vô thượng bồ
đề tạng, là Phổ-Hiền bất tư nghị giải thoát tạng ..."
Khi ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát
ở trước đức Như-Lai mà tuyên thuyết ý nghĩa và công
đức bất khả tư nghị của danh hiệu Phật rồi, đức Như-Lai
khen rằng : Lành thay ! Lành thay !
Vô lượng vô
biên Bồ-Tát khắp mười phương chứng đắc Niệm Phật Tam Muội,
và Quốc mẫu Vi-Đề-Hy cùng những vị trưởng lão trong đại
chúng đều thân chứng Tín Giải Đà-ra-ni. Chư Thiên,
Long, Quỷ, Thần đều thâm nhập Thiện Căn Đà-ra-ni, hớn
hở vui mừng đồng chấp tay nhất tâm xưng
niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật.
PHẨM
THỨ TƯ
XƯNG
TÁN DANH HIỆU
NIỆM
PHẬT ĐỂ THÂM NHẬP NHƯ LAI TẠNG TÂM
THÌ
KHÔNG DÍNH MẮC VÀO "HIỆN TẠI LẠC TRÚ"
Bấy giờ, Quốc mẫu Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu từ trong pháp hội bước ra, cung kính đảnh lễ Thế-Tôn, rồi chấp tay hướng về ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, mà thưa rằng:
- "Kính bạch
Đại-sĩ, con thường nghe chư vị trưởng lão từng tham
dự những buổi thuyết pháp đầu tiên của đức Thế-Tôn tại vườn
Lộc-Uyển, dạy rằng hoặc niệm Phật, hoặc niệm Pháp, hoặc niệm
Tăng để được hiện tại lạc trú. Ý nghĩa ấy như thế nào
? Cứu cánh của môn niệm Phật có phải chăng là để
được như vậy hay không ? Ngưỡng mong Đại-sĩ từ bi chỉ dạy, ngõ hầu
các chúng sanh thời Mạt pháp khỏi rơi vào mê lầm, thác
ngộ".
Phổ-Hiền Bồ-Tát
bèn quán sát tâm niệm của hết thảy đại chúng hiện
tiền, mà dạy rằng :
- "Nầy Phật tử, khi đức Thế-Tôn Thích-Ca Mâu-Ni thị hiện thành đạo, và bắt đầu hóa độ chúng sanh cang cường, Ngài đã vì hạng tiểu căn mà khai diễn tiểu pháp kẻo họ kinh nghi ... Nay đã tới thời kỳ giảng nói Đại pháp. Cũng chỉ là một pháp Niệm Phật, nhưng kẻ hạ liệt chí nhỏ, mong cầu xuất ly tam giới, thì niệm Phật chỉ là pháp Thanh-văn, Duyên-giác. Như-Lai vì họ mà dạy hiện tại lạc trú.
“ Riêng chư vị
Bồ-Tát sơ phát tâm, dùng niệm Phật để thâm
nhập Như-Lai
tạng tâm thì không dính mắc vào hiện tại.
Vì sao chư
Bồ-Tát sơ phát tâm lại không được dính mắc vào hiện tại ?
Nếu Bồ-Tát sơ phát
tâm dính mắc vào hiện tại khắc chế, hiện tại tương
ưng, hoặc hiện tại biện giải, thì bị rơi vào ảo
tưởng của sắc uẩn.
Nếu Bồ-Tát sơ phát
tâm dính mắc vào hiện tại phan duyên, hoặc hiện tại ly
trần, hoặc hiện tại vô ký, tức thì đang bị nhiễu loạn bởi ảo
tưởng của thọ uẩn.
Nếu Bồ-Tát sơ phát
tâm dính mắc vào hiện tại tỉnh chỉ, hoặc hiện tại luân
chuyển, hoặc hiện tại nương gá, tức thì đang bị chi
phối bởi ảo tưởng của tưởng uẩn.
Nếu Bồ-Tát sơ phát
tâm dính mắc vào hiện tại sanh khởi, hiện tại tương
tục, hoặc hiện tại đoạn diệt, hoặc hiện tại bất động, tức
thì đang bị trôi lặn theo ảo tưởng của hành uẩn.
Nếu Bồ-Tát sơ phát
tâm dính mắc vào hiện tại phỉ lạc, hoặc hiện tại vong
ưu, hoặc hiện tại mông muội, tức thì đang bị triển
chuyển bởi ảo tưởng của thức uẩn.”
Lại nữa, Bồ-Tát sơ
phát tâm muốn xoay cái vọng tưởng hư dối sanh diệt trở
lại với chân tâm thanh tịnh thường trụ thì phải dùng
pháp gì, nếu không là danh hiệu Như-Lai ? Làm thế nào để
chặt đứt gốc rễ phiền não, nếu không sử dụng lực vô
úy của danh hiệu Như-Lai ? Làm thế nào để diệt trừ sạch
hết sáu tên giặc khác trần nếu không hiển thị công
năng nhiệm mầu đệ nhất của danh hiệu Như-Lai ?
Nầy Phật tử, cõi
Diêm-phù-đề nầy vốn lấy âm thanh làm thể. Dó đó, nhiều chúng
sanh có thể nương nơi âm thanh viên mãn mà chứng viên
thông. Như vậy, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật chính là âm
thanh tối thắng, đưa chúng sanh thâm nhập Như-Lai
tạng diệu chân như tánh. Vì thật tướng của danh
hiệu là vô tướng, không đọa vào nhân duyên, không lạc
vào tự nhiên, chẳng hòa hợp, chẳng phi hòa hợp. Luôn vắng
lặng, chu biến khắp mười phương. Tùy theo tín
tâm, công năng tu tập mà phát huy diệu dụng.
Nầy Phật
tử, danh hiệu Phật chính là Bồ-đề-tâm, vì là chủ
tể các thiện pháp, và luôn luôn sanh ra tất cả Phật Pháp.
Danh hiệu Phật
chính là Bồ-đề-nguyện, vì là cửa ngõ xu hướng Vô-thượng-giác, và luôn
luôn dẫn dắt chúng sanh tới Nhứt-thiết Chủng-trí.
Danh hiệu Phật
như mặt trời, vì có uy lực phá trừ si ám, ban phát ánh
sáng thiện căn cho nhân gian.
Danh hiệu Phật như
kình ngư, vì có thể bơi lội tự tại trong đại dương khổ não,
mà chẳng bị sóng dữ phiền não vùi chôn, cuốn lấp.
Danh hiệu Phật như
giống chắc thật, vì có thể lưu xuất tất cả phước đức vô lậu.
Danh hiệu Phật như
trận mưa lớn, vì khiến hạt giống Bồ-đề nẩy nở, sanh sôi.
Danh hiệu Phật như
ruộng tốt, vì có thể trưởng dưỡng hết thảy bạch tịnh pháp.
Danh hiệu Phật như
nước cam lồ quý báu, vì có thể tẩy rửa mọi thứ phiền não dơ
bẩn, khiến vọng tâm trở thành đài gương làu làu sáng sạch.
Danh hiệu Phật như
ngọn lửa mạnh mẽ, vì có thể đốt tan rừng rậm kiến chấp.
Danh hiệu Phật như
trận cuồng phong vô ngại khắp thế gian, vì nó cuốn phăng tất cả
bụi mù tà kiến, hí luận, thiên kiến.
Danh hiệu Phật
như tuệ nhãn xuyên thấu mọi pháp và thấy rõ khắp tất
cả chướng ngại, hiểm trở.
Danh hiệu Phật như
chiếc xe khổng lồ, vì có thể chuyển vận hết thảy Bồ-Tát sơ phát
tâm nhanh chóng tới Phật địa.
Danh hiệu Phật như
căn nhà to rộng của Như-Lai, vì khiến chúng sanh không còn sợ
hãi, bất an.
Danh hiệu Phật như
cung điện nguy nga tráng lệ, vì giúp chúng sanh tu tập và
khai phát vô lượng tam muội.
Danh hiệu Phật là
chỗ nương tựa chắc chắn cho tất cả Bồ-Tát sơ phát tâm, vì luôn
chứa nhóm và và lưu bố hết thảy Bồ-Tát hạnh.
Danh hiệu Phật
như từ mẫu, vì ấp ủ, che chở và sanh ra tất cả Bồ-Tát, nuôi lớn
căn lành cho hết thảy chúng sanh.
Danh hiệu Phật
như kim cương bất hoại, lại có thể đập vỡ tất cả các pháp hữu lậu.
Danh hiệu Phật là
vị thuốc A-già-đà, vì có thể chữa được tất cả bịnh tật cho chúng sanh.
Danh hiệu Phật
như liên hoa, vì không bao giờ bị nhiễm ô bởi những
pháp thế gian.
Danh hiệu Phật
như tượng vương hùng dũng, có thể chà đạp tất cả điên
đảo tưởng ngang trái, hung hiểm.
Danh hiệu Phật như
hạt châu Ma-ni, có thể dùng phát chẩn cho tất cả chúng
sanh sanh nghèo khó phước đức và trí tuệ.
Danh hiệu Phật như
thủy thanh châu, vì có thể lóng sạch tất cả dây trói sanh tử.
Danh hiệu Phật
như ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Thế-Tôn Như-Lai,
Ưng-cúng, Chánh-đẳng-giác, do đó tất cả thế gian nên cúng dường,
hân ngưỡng, tán thán ...
Danh hiệu Phật như
Pháp thân bất tư nghị, vì luôn lưu xuất tất cả thân của chúng
sanh.
Danh hiệu Phật
như Báo thân tư nghị, vì luôn sanh ra vô lượng vi
trần thân trong tâm tưởng mọi chúng sanh.
Danh
hiệu Phật như Hóa thân Phật bất tư nghị, vì luôn hiện
thân Phật ngay nơi thân và tâm của người xưng niệm danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật.
Danh hiệu Phật
chính là Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ, vì hiển thị Báo
thân viên mãn lưỡng túc của giác quả.
Danh hiệu Phật
chính là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ, vì dung nhiếp Hóa thân tùy
nguyện vãng sanh của chư vị Thượng thiện
nhân khắp mười phương thế giới.
Danh hiệu Phật
chính là cõi Cực-Lạc vì tự thân trang nghiêm và tự
tâm trang nghiêm.
Danh hiệu Phật
chính là ba đời mười phương chư Phật, vì A-Di-Đà tức là Pháp-giới
Tạng-thân, có lực dụng thu nhiếp và hiện Pháp thân của ba
đời mười phương chư Phật.
Nầy Phật
tử, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật thành tựu vô
lượng vô biên công đức như thế. Cho nên, phải nói rằng danh
hiệu Phật chứa đựng vô lượng vô biên công đức của hết
thảy Phật pháp, khai vô lượng vô biên diệu dụng, hiển
thị vô lượng vô biên uy lực, giải ngộ vô
lượng tri kiến giải thoát, siêu việt mọi tư
duy, ngôn từ.
Tại làm sao thế ?
Bởi vì nhân
nơi danh hiệu Phật mà xuất sanh và lưu bố tất cả Bồ-đề
tâm, tất cả bồ đề nguyện, tất cả Bồ-đề hạnh. Ba đời mười
phương Như-Lai thảy đều từ danh hiệu Phật mà phát sanh
ra. Ba đời mười phương Như-Lai thảy đều do danh
hiệu Phật mà thành đạo, chuyển pháp luân, giáo hóa nhị
thừa, điều phục chúng sanh cang cường, tội khổ, tham
đắm. Ba đời mười phương Như-Lai thảy đều y cứ danh
hiệu Phật mà kiến lập Hoa-Tạng Thế-Giới Hải, trang nghiêm vi
trần số cõi Phật.
Cho nên, nếu chúng
sanh nào nhất tâm xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà
Phật, tức là xuất sanh vô biên công đức vô lậu bất khả tư nghị,
đủ năng lực viên mãn Bồ-tát-đạo, phát huy diệu
dụng của tam thân, tứ trí, thập lực, từ vô-úy, tứ vô-lượng-tâm, lục
ba-la-mật, thập bát bất-cộng v.v...
Nầy Phật
tử, thí dụ như có người được món thuốc A-già-đà công
hiệu bậc nhất thế gian, thì chữa được năm thứ bệnh bức
não, sợ hãi. Như là: Lửa lớn không thể đốt cháy, độc dược chẳng
làm thương tổn tánh mạng; gươm dao sắc bén chẳng thể chặt đứt nổi.
Nước lũ bộc lưu không thể nhận chìm được. Khói cay không
thể làm cho ngộp thở được.
Cũng như thế,
Bồ-Tát Sơ phát tâm nếu thường xuyên xưng niệm danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, tức là luôn luôn uống món thuốc nhứt-thiết-trí
Bồ-đề-tâm, thì ngọn lửa tham lam không thể đốt cháy được. Độc
dược sân hận chẳng thể làm thương tổn chân tâm. Gươm
đao kiến chấp chẳng thể chặt đứt tuệ mạng. Dòng nước lũ hữu
lậu không thể nhận chìm chiếc thuyền bát-nhã được. Và đám
khói tà kiến không thể làm cho ngộp tắc hơi thở giác
ngộ được.
Thí dụ như có người
cầm thanh bảo kiếm vô năng thắng ở trong tay, thì tất cả oán
địch đều tránh dang ra xa, chẳng dám chống cự. Cũng như thế,
Bồ-Tát sơ phát tâm bền chí mà xưng niệm danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, chính là cầm lưỡi kiếm vô năng
thắng đại Bồ-đề tâm tức thì đẩy lùi oán địch vô
minh, tà kiến và hàng phục vọng tưởng ...
Thí dụ như có người
cầm viên thuốc Ma-ha-ưng-già thì tất cả rắn độc, rết độc, trùng độc, nghe
mùi liền tránh xa. Cũng như thế, Bồ-Tát sơ phát tâm giữ trong mình
một viên thuốc tối diệu tối thắng đại Bồ-đề tâm, đó là danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, thì tất cả rắn độc thập triền, rết
đọc thập sử, trùng độc phiền não nghe hơi thảy đều tiêu hoại.
Thí dụ như có loài
dược thọ tên là San-đa-na, người nào dùng vỏ cây để thoa vào chỗ ghẻ lở, thì
hết đau nhức và ghẻ lở liền lành lặn như xưa. Vỏ cây ấy vừa bị bóc ra, thì nối
liền lại ngay, lấy mãi không hề hết được. Cũng như thế, Bồ-Tát sơ phát
tâm liên tục xưng niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, chẳng
khác nào trồng cây dược thọ nhứt-thiết-trí. Nếu có người nào gặp gỡ
mà phát khởi lòng tin, thì ghẻ lở phiền não, nghiệp
chướng đều bị trừ diệt, thân tâm không còn đau khổ.
Nhưng cây dược thọ nhứt-thiết-trí không hề tổn hại mảy may. Danh
hiệu Phật vẫn y nguyên bất động.
Thí dụ như có người
ném vào khoảng đồng trống một nhúm rễ cây Hương-phụ, chẳng bao
lâu, nảy nở vô số giống cây ấy lan tràn che khuất cả
cánh đồng rộng lớn. Cũng như thế, Bồ-Tát sơ phát tâm quyết
tâm gieo trồng trên mảnh ruộng tâm một nhúm danh hiệu Nam-mô
A-Di-Đà Phật, tựa như ươm bón thế rễ cây không tánh. Chẳng bao lâu, sẽ
sanh sôi nẩy nở vô số thảo mộc Phật Tri Kiến, tràn
lan che lấp cả cánh đồng vô minh.
Thí dụ như có người
uống hoàn thuốc kiện cường trí nhớ, nhờ vậy những gì nghe thấy đều ghi nhớ
chẳng quên. Cũng như thế, Bồ-Tát Sơ phát tâm trang bị thân
tâm bằng danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, thì thọ
trì tất cả Phật Pháp đều không quên sót.
Thí dụ như viên
ngọc châu lưu ly, muôn ngàn năm lăn lóc nơi chỗ nhơ bẩn, uế tạp,
mà chẳng nhiễm ô, vì bản tánh của lưu ly vốn luôn
luôn trong sạch. Cũng như thế, Bồ-tát Sơ phát tâm ngày
đêm thủ hộ thân tâm bằng danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật
mà chen lộn nơi cõi dục ác trược, vẫn chẳng bị ngu si, tà
kiến làm cho loạn nhiễm. Bởi vì bản chất của Nam-mô A-Di-Đà Phật
vốn thanh tịnh như pháp giới tánh, vô cấu như hư không tánh.
Thí dụ như cây
Ba-lợi Chất-đa-la dẫu chưa đơm hoa, khai nụ, nhưng mọi người đều biết
rằng chính loại cây này sẽ sản xuất vô số bông hoa
mỹ diệu, thù thắng. Cũng như thế, năng lực niệm
Phật của vị Bồ-Tát sơ phát tâm dẫu chưa phá sanh nhứt
thiết chủng trí, nhưng ai nấy đều biết chắc
chắn rằng danh hiệu Phật chính là nơi xuất sanh vô
số Bồ-đề diệu hoa cho hết thảy chúng nhân thiên.
Thí dụ như viên
ngọc Ma-ni quý hơn cả tam-thiên đại-thiên thế giới, dẫu bị nứt bể một góc
cạnh, nhưng những thứ vật báu khác vẫn chẳng thể so
sánh nổi. Cũng như thế Bồ-Tát sơ phát tâm chấp trì danh
hiệu Phật, tuy nết hạnh và trí đức còn kém khuyết vẫn vượt lên
trên nhị thừa và hàng hữu học khác.
Thí dụ như
cây kim cương, những người đầy đủ sức mạnh vẫn không thể sử
dụng nổi, chỉ trừ đại lực sĩ Na-La-Diên. Cũng như thế,
hành nhị thừa và kẻ phàm ngu chẳng thể
tín thọ danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Chỉ trừ hạng
Bồ-Tát sơ phát tâm từng gieo trồng hạt giống Bát-nhã từ
vô lượng kiếp sâu xa, mới saün đủ thiện căn, phước
đức và đại nhân duyên để chấp trì và hưởng dụng giác
quả vô lậu ấy.
Thí dụ như
trên bảo tòa Kim-cương giữa đại thiên thế giới, có thể giữ vững
chư Phật ngồi đạo tràng, hàng phục quần ma, thành
đạo vô thượng chính giác, mà tất cả những thứ bảo tòa khác
đều không kham nổi. Cũng lại như thế, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật
có thể giúp Bồ-Tát Sơ phát tâm trụ vững tất cả hạnh nguyện, các
món ba-la-mật, bốn món vô-sở-úy, thọ ký, cúng dường ... mà tất
cả pháp môn khác thì chẳng có công năng nầy, tất cả hạnh tu
khác thì chẳng có lực dụng này.
Nầy Phật
tử, danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật hiển thị vô lượng vô
biên cho đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết công đức thù
thắng như vậy. Ta dẫu biến hiện hằng hà sa thân tướng trong vi
trần sát quốc độ trải qua muôn ức na-do-tha đại kiếp,
để xưng tán thì cũng không cùng tận.
Ngài Đại Bồ-Tát Phổ-Hiền
ở trước đức Như-Lai tuyên thuyết ý nghĩa và xưng
tán công đức của danh hiệu Phật vừa xong, cả thảy đại
chúng đều đắc Vô-lậu Công-đức Đà-ra-ni. Trưởng giả Diệu-Nguyệt
cùng chư vị Bồ-Tát sơ phát tâm đều chứng được Niệm
Phật Tam-muội, tất cả chư Bồ-Tát mười phương đều đắc Hồng-danh
Công-đức Tạng.
Khi ấy, trời mưa hoa
Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, để
rải cúng dường đức Như-Lai cùng hết thảy chúng hội đạo
tràng.
PHẨM
THỨ NĂM
QUÁN THẾ ÂM
BỔ TÁT
NIỆM PHẬT VIÊN THÔNG
PHẦN CHÁNH TÔNG
NIỆM
PHẬT THẲNG VÀO CẢNH GIỚI THÁNH TRI TỰ CHỨNG
TƯƠNG
ỨNG VỚI THẬP ĐỊA BỒ TÁT
HAY
NIỆM
PHẬT y “VÔ SỞ ĐẮC”, mà mau đắc
“BA
THỪA” LÊN “PHẬT QỦA”
Lúc bấy giờ, Quốc mẫu
Vi-Đề-Hy hoàng thái hậu hớn hở vui mừng được nghe pháp yếu của Như-Lai qua lời
dạy của ngài Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát, bèn tiếp tục thưa thỉnh:
- "Kính bạch đấng Thiên Nhân Sư tối tôn, tối thắng ! Kính bạch Đại-sĩ đại
từ, đại bi ! Con cũng thường nghe chư vị trưởng lão trong tăng già luôn luôn
nhắc nhở rằng chỉ có Tứ-niệm-xứ là con đường độc nhất giúp
chúng sanh diệt trừ ưu bi khổ não, chứng ngộ Niết-bàn. Nay được Thế-Tôn mở
bày pháp Niệm Phật, khiến hằng ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di đều phân vân,
do dự. Ý nghĩa ấy như thế nào ? Đâu mới là pháp chân thật, rốt ráo ? Đâu là
pháp phương tiện, quyền biến ? Đâu là pháp tối hậu mà Như-Lai thường ban cho
các chúng sanh ở vào thời kỳ Chánh pháp cuối cùng ?"Đức Phật mỉm cười lặng
yên. Ngài Phổ-Hiền an nhiên nhập vào Niệm Phật Tam-muội. Thân tâm bất động.
Khi ấy, ngài Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát liền từ bảo tòa đứng dậy,
trịch áo phơi bày vai bên hữu, cung kính nhiễu quanh đức Phật ba vòng. Rồi Ngài
hướng về bà Vi-Đề-Hy mà bảo rằng:
- "Nay tôi nương uy thần vô hạn của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, và tùy
thuận Bản-nguyện-lực vô biên vô lượng của đức Phật A-Di-Đà, mà tuyên dương năng
lực vô cùng tận của danh hiệu Phật, tức là Pháp Môn Niệm Phật Tam Muội.
- Nầy Vi-Đề-Hy, hãy nhận rõ như thế nầy, đừng rơi vào nghi lầm nữa.Đúng như
ngươi vừa mới trình bày, Tứ-niệm-xứ là pháp diệt khổ, là pháp đối trị tham dục,
ưu bi khổ não, là pháp đắc Niết-bàn vắng lặng. Còn pháp Niệm Phật Tam-muội lại
là pháp thành Phật, là pháp chứng Vô-thượng-giác, là pháp thâm nhập cảnh giới bất
tư nghị của chư Phật, là pháp mở bày tỏ ngộ Tri Kiến Như-Lai, là pháp cứu độ
tất cả mọi chúng sanh, là pháp siêu việt trên hết thảy hí luận cùng thiên kiến
của nhị thừa. Tại sao vậy ?
Trước đây, đức Thế-Tôn vì những người ghê sợ hiểm nạn sanh tử, mà nói pháp
Tứ-niệm-xứ, chánh niệm tinh tấn nhiếp phục tham sân si, để thoát khổ và
đắc A-la-hán.Nay vì những người tín ngưỡng, khát khao quả vị Bồ-đề chí
hướng mong cầu Phật đạo, phát khởi đại bi tâm mà thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát
thì đức Thế-Tôn chỉ dạy pháp môn Niệm Phật Tam-muội.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì một niệm bất giác nổi
lên, che mờ Bản-thể Thường-trụ, nhận vật bên ngoài làm TÂM. Luôn
luôn bỏ mất TÂM chân thật, nên bị cảnh vật xoay chuyển. Do đó khởi tâm phân
biệt, thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, cao hạ... Nếu xoay được cảnh vật bên ngoài thì
thân tâm sẽ sáng suốt, trạm nhiên, trọn đầy, tức thời đồng với Như-Lai không
khác.
Muốn xoay chuyển ngoại vật, thì không chi bằng sử dụng diệu lực vô úy của danh
hiệu Phật. Thật vậy, nhờ xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật mà hành giả nhìn thấy
cảnh vật bên ngoài đúng như bản chất thật sự của chúng. Do đó không còn bị
ngoại cảnh chi phối, điều phục thân tâm. Và chẳng còn mống khởi tâm phân biệt.
Lúc ấy, tuy không rời pháp hội mà biến hiện khắp mười phương quốc độ; trong
một lỗ chân lông vẫn chứa đựng cả Hoa-tạng Thế-giới-hải.
Khi xưng niệm danh hiệu
Phật, hành giả không để tâm dong ruổi theo thanh trần, mà xoay cái
nghe trở vào Chơn-tánh, đó là danh hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận
thành một dòng Tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều hiển hiện Chơn-như-tánh. Chính nó
thật là Tánh Nghe của mình, chẳng còn hai tướng động và tịnh, toàn
là thể vắng lặng, soi chiếu khắp mười phương.
Tiếp tục hành trì niệm Phật như thế, chẳng bao lâu thì Tánh Nghe cũng
không còn. Khi ấy, Phật Trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu Phật vẫn
tương tục, không gián đoạn.Nầy Vi-Đề-Hy, trong pháp hội
Thủ-Lăng-Nghiêm, tôi đã trình bày nhân địa tu hành Nhĩ Căn Viên Thông cho
đại chúng. Nhưng, thời Mạt pháp các kinh điển dần dần ẩn mất, mà nên biết
kinh Thủ-Lăng-Nghiêm, sẽ bị diệt trước nhất, tiếp sau là kinh
Lăng-Già, kinh Kim-Cương, kinh Ma-Ha Bát-Nhã, kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa ... Nếu
không nương nhờ pháp niệm Phật thì rất khó chứng đắc Nhĩ Căn Viên Thông.
Bởi vì sao ? Bởi vì Niệm Phật Tam-muội chính là món Viên-thông đệ nhất.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, vì lăn lộn trong đêm tối vô
minh, nhận giặc làm cha, lấy vọng kiến làm chỗn nương về, lấy tà kiến làm bạn
lữ, lấy biên kiến làm lương dược. Nhận ngã chấp, ngã kiến làm Tâm. Rời
xa Tri-kiến Giải-thoát Vô-thượng. Do đó, khởi tâm phân biệt, thấy đúng sai, tà
chánh, thiện ác, chân ngụy ... nếu lọc sạch ngã kiến, ngã chấp thì thân tâm sẽ
quang minh, thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. Tức đồng đẳng với Tri
Kiến giác ngộ của chư Như-Lai.
Nếu muốn gạn lọc ngã kiến, ngã chấp, thì không chi hơn là phát huy năng lực vô
biên của danh hiệu Phật. Thật vậy, nhờ chuyên tâm xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà
Phật mà hành giả tuần tự chuyển Thức thành Trí. Ngã chấp tự nhiên rơi rụng,
ngã kiến tự nhiên tan mất như bong bóng nước dưới ánh mặt trời. Lúc bấy giờ,
tuy không lìa cung Đâu-Suất mà vẫn phân thân khắp vi trần quốc độ để chuyển
pháp luân vô thượng, và khai thị tuệ giác cho vô lượng chúng sanh, giúp hết
thảy tứ sanh, cửu hữu cùng ngộ nhập Phật Tri Kiến.
Khi xưng niệm danh hiệu Phật, hành giả không để Thức nương theo nhân duyên mà
dấy động, nên chẳng thành tựu pháp Y-tha-khởi. Vì không có sự tham dự của ngã
và ngã sở nên Biến-kế Sở-chấp cũng chẳng tồn tại. Chỉ có danh hiệu Phật vẫn
tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm, mà mỗi mỗi sát-na đều
biểu hiện Vô-thượng Diệu-viên Thức-tâm Tam-Muội, tức là Chân Duy Thức Tánh.
Tiếp tục hành trì niệm Phật
như thế chẳng bao lâu, thì chẳng còn nhìn thấy huyễn tướng của vạn pháp ở bên
ngoài và cũng chẳng còn bắt gặp Tám thức ở bên trong. Trong hay ngoài đều giả
dối, không thật. Ngay cả tướng Duy-thức cũng chẳng có nữa. Vì ba đời mười
phương Như-Lai, vi trần sát quốc độ, hư không, sắc pháp, tâm vương, tâm sở...
đều không một thứ nào ra ngoài Chân Duy Thức Tánh mà tự hữu, tự sanh, tự diệt,
danh hiệu Phật vẫn tương tục, không gián đoạn, như có, như không, cho đến khi
Chân Duy Thức biến mất, Đại Viên Cảnh Trí tự nhiên phơi bày, danh hiệu Phật sẽ
dẫn dắt hành giả đi vào tánh Viên Thành Thật, chứng Vô-sanh Pháp-Nhẫn.
Do đó, phải nói rằng Niệm Phật là pháp môn đệ nhất dùng
để chuyển thức thành trí, mà chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng
năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị vô số tư tưởng điên đảo
làm khuất lấp tánh Viên-giác. Như kẻ ngủ mê chợt thức giấc giữa ngã tư đường
cái, chẳng rõ phương hướng, lẫn lộn chánh tà, thấy cong nhìn ngược, bất phân
thiện ác. Tư tưởng điên đảo ấy nẩy sanh thân và tâm, rồi nhận thân tứ
đại giả hợp làm thân, chấp cái tư tưởng vô minh điên đảo kia làm tâm. Cứ
thế mà sanh tử, tử sanh nối nhau không dứt, tạo vòng lẩn quẩn luân hồi.
Nhưng cái vô minh điên đảo ấy cũng chẳng thật. Như hoa đốm, như bóng nước, như
ảo tưởng nơi sa mạc, như người ngủ chiêm bao, thấy những sự việc, cảnh vật rõ
ràng, nhưng khi thức dậy, thời không còn gì hết. Nếu chuyển hóa vô minh điên
đảo thời thân và tâm sẽ thành Giác-ngộ. Hoặc không phát tâm tu trì thời vẫn ở
mãi trong sanh tử huyễn mộng ấy mà tự vui. Chỉ có danh hiệu Phật là đầy đủ năng
lực nhiệm mầu để chuyển hóa sanh tử trở nên Niết-bàn, chuyển hóa giả huyễn trở
nên chân thật.
Vì sao vậy ?
Khi xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, hành giả dần dần thành tựu chánh
định Như-Lai, tự nhiên phát sanh Tuệ-giác Không-tánh, vì danh hiệu Phật là
Hư-không-tạng, là Viên-giác-tánh, là Vô-cấu-tạng, là Tịch-tịnh-tạng... Nhờ vậy,
hành giả biết các pháp đều như huyễn, thời tự nhiên lìa xa các huyễn hóa, sanh
diệt. Ngay lúc ấy, bèn thâm nhập Viên-giác-tánh. Đó gọi là tri huyễn
tức ly, ly huyễn tức giác.
Dùng pháp nào để Tri ? Nếu không phải là diệu dụng của danh
hiệu Phật ?Không cần phải hủy diệt các thứ huyễn, mới cho chúng nó là huyễn.
Không cần thay đổi bản chất huyễn của nó mới gọi là Không. Mà chính cái
biết "nhứt thiết pháp là Không" khiến đương thể của huyễn pháp tức là
Không.
Tiếp tục xưng niệm
Nam-mô A-Di-Đà Phật như thế, hành giả không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn
sự, mà hướng cái biết trở vào Viên-giác-tánh. Đó là danh hiệu Phật đang tuôn
chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Mà mỗi mỗi
sát-na đều hiển lộ Như-Lai Tạng, và cái biết cũng không còn nữa. Danh hiệu Phật
vẫn tương tục không gián đoạn, hòa tan căn, trần, thức đều nhập vào
Viên-giác-tánh, bình đẳng bất động, thường trụ như hư không và tròn đầy chiếu
suốt mười phương.
Bởi vậy, phải nói rằng niệm Phật là pháp môn đệ nhất, sử dụng danh hiệu Như-Lai
mà thâm nhập Như-Lai-Tạng, mà chuyển biến huyễn hóa, hư dối trở nên
Viên-giác-tánh. Các hạng chúng sanh thời Mạt pháp phải siêng năng thọ trì.
Nầy Vi-Đề-Hy, tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, bị phiền não chi phối ngày
đêm không tạm dừng, nên nhận vọng tưởng làm Tâm, bỏ quên Thắng-giải-trí,
Vô-thượng-trí. Rồi lại bị tham, sân, si, mạn, nghi lôi cuốn, và thân kiến, biên
kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến chồng chất lấp vùi. Do đó khởi
tâm phân biệt, thấy có mừng có giận, yêu ghét, vui buồn, vinh hoa, hủy nhục...
nếu tận trừ phiền não thì thân tâm vắng lặng, an nhiên, tự tại, tức đồng với
chư Phật không hai không khác.
Muốn tận trừ phiền não,
thì không chi hơn là phát huy năng lực Trí giả siêu việt của danh hiệu Nam-mô
A-Di-Đà Phật. Thật vậy nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự
Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội ấy trở thành Bồ-đề thật
tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Tri Tự Chứng. Lúc bấy
giờ, có khả năng bấm ngón chân xuống mặt đất, sử dụng ấn Địa Xúc để cải biến
Ta-bà thành Tịnh-độ trang nghiêm, niệm niệm tương ứng với Thập-địa
Bồ-Tát, niệm niệm du hành, giáo hóa xã hội chúng sanh khắp mười phương vi
trần bằng hà sa thế giới.
PHẨM
THỨ SÁU
NĂNG
LỰC BẤT TƯ NGHỊ CỦA
DANH HIỆU PHẬT
PHẦN CHÁNH TÔNG
THẬP
PHƯƠNG TAM-THẾ PHẬT, A-DI-ĐÀ ĐỆ NHỨT
CỬU
PHẨM ĐỘ CHÚNG-SANH, OAI-ĐỨC VÔ CÙNG CỰC
Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát
bảo bà Vi-Đề-Hy rằng:
- "Nầy Vi-Đề-Hy,
đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn trọn đời giáo hóa điều
phục chúng sinh, đã ban bố tám vạn bốn ngàn pháp môn tu tập.
Nhưng trong đó, niệm Phật là thù thắng đệ nhất.
Vi-Đề-Hy, trong quá
khứ vô lượng vô biên na-do-tha kiếp, các đức
Phật Như-Lai đã dùng hằng hà sa phương tiện, thí
dụ, ngôn thuyết, để diễn bày vô số pháp môn tu tập, đưa hết
thảy chúng sanh vào Cảnh Giới Giải Thoát Tối
Thượng Nhứt Thừa. Nhưng duy chỉ có niệm Phật là cứu
cánh đệ nhất.
Vi-Đề-Hy, hiện
tại nơi trăm nghìn muôn ức na-do-tha quốc độ khắp mười
phương, các đức Phật Chánh-đẳng-giác cũng đang dùng hằng hà
sa phương tiện, ngôn thuyết, thí dụ để diễn bày vô
số pháp môn tu tập, đưa hết thảy chúng sanh dung hóa vào
Không-tánh, Niết-bàn Diệu-Tâm Như-Lai Tạng, nhưng duy chỉ có niệm
Phật là hữu hiệu, siêu việt đệ nhất.
Tại sao vậy ?
Nầy Vi-Đề-Hy, hãy kiên
nhẫn lắng nghe. Ta sẽ vì các hạng nữ nhân nơi thời Mạt
pháp, cũng như người hiện nay, mà tuyên dương tất cả năng
lực bất tư nghị của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật.
1-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào, hễ nhất tâm xưng niệm danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, dù chỉ một câu duy nhất, thì sẽ xuất sanh
những món năng lực bất tư nghị. Như là:
Năng lực bất tư
nghị phân biệt rốt ráo tự tánh của tất cả các pháp.
Năng lực bất tư
nghị thấy rõ tánh chất huyễn hóa của tất cả pháp hữu vi.
Năng lực bất tư
nghị thấu triệt tất cả các pháp đều là Phật pháp ở
nơi ý nghĩa liễu giải không vướng mắc.
Năng lực bất tư
nghị tôn trọng và thừa sự hết thảy chư vị Thiện-tri-thức.
Năng lực bất tư
nghị phân biệt tất cả các pháp mà tự tại vô ngại.
Năng lực bất tư
nghị tùy thuận tất cả căn lành dẫn dắt tới Vô-thượng-giác.
Năng lực bất tư
nghị luôn thâm tín điều nhu tất cả Phật Pháp.
Năng lực bất tư
nghị đại từ bi khoan dung, không chê bai khinh rẻ những môn phi
pháp.
Năng lực bất tư
nghị không bao giờ thối thất Bồ-đề-tâm, Bồ-đề-nguyện.
Năng lực bất tư
nghị không hề quên sót danh hiệu Phật.
Năng lực bất tư
nghị mãi mãi tùy thuận Bản-nguyện của chư Phật, chư Bồ-Tát.
Năng lực bất tư
nghị đưa hết thảy chúng sanh an trụ vào biển cả
Đại-nguyện vô lượng công đức của đức Phật A-Di-Đà.
Năng lực bất tư
nghị cải biến Ta-bà thành Tịnh-độ vi diệu trang nghiêm, đồng cõi
Cực-Lạc không khác.
2-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào chấp trì danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà
Phật, trọn đời nhất tâm xưng niệm không chán mỏi, thì sẽ đắc
thắng những pháp vô cấu nhiễm, nghĩa là không dính mắc.
Không dính mắc tất
cả cảnh giới bên trong và bên ngoài.
Không dính mắc hơi
thở và sự điều hòa hơi thở.
Không dính mắc
các tâm sở tầm, tư.
Không dính mắc vào
những trạng thái hỷ, lạc, khinh an ...
Không dính mắc
vào trạng thái xả, nhất tâm.
Không dính mắc vào
Không-vô-biên-xứ, Thức-vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ ...
Không dính mắc vào tất
cả pháp hữu lậu cũng như vô lậu.
Không dính mắc vào tất
cả những pháp đã học.
Không dính mắc vào tất
cả những căn lành.
Không dính mắc vào tất
cả chỗ thọ sanh, giai tầng xuất thân, gia thế, dòng dõi.
Không dính mắc vào tất
cả giới luật, thiền định, công hạnh tu tập.
Không dính mắc
vào ý nguyện mong cầu xuất ly, giải thoát.
Không dính mắc vào tất
cả sự biện giải và tranh cãi.
Không dính mắc vào
sự nỗ lực để tinh tấn.
Không dính mắc
vào tư tưởng chán ghét thế gian.
Không dính mắc vào tất
cả pháp tương-ưng-hành và những pháp bất-tương-ưng-hành.
Không dính mắc vào ngay
cả danh hiệu Phật.
3-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào siêng năng xưng niệm Nam-Mô A-Di-Đà Phật
chẳng lười mỏi, chẳng lui sụt, thì chắc chắn phát huy những Pháp
Chân Thật, nghĩa là không dối gạt.
Không dối gạt tự thân.
Không dối gạt tha nhân.
Không dối gạt quốc pháp.
Không dối gạt vì bị áp chế bởi quyền lực kẻ mạnh.
Không dối gạt vì bị thao túng bởi nữ sắc.
Không dối gạt chư vị Thiện-tri-thức như Sư-trưởng, bạn đồng học, đồng tu.
Không dối gạt tất cả những pháp đã học.
Không dối gạt tất cả những pháp chưa học.
Không dối gạt đoàn thể Tăng-già.
Không dối gạt chỗ tri giải của tự tâm.
Không dối gạt chỗ nhận biết của người khác.
Không dối gạt tất cả chư Thánh Nhân, Bồ-Tát, Như-Lai.
4-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào thường xuyên xưng niệm Nam-mô
A-Di-Đà Phật thiết tha, hân ngưỡng, dẫu gặp cảnh ngộ nào cũng
chẳng thối chí, thì chiêu cảm những hạnh lành bất tư
nghị. Như là:
Tự-tại-hạnh, vì an
nhiên giữa tất cả chướng duyên nơi cõi Ta-bà để thành tựu thệ
nguyện.
Tam-muội-hạnh,
vì nhất tâm, bất loạn.
An-trụ-hạnh, vì luôn
luôn an trụ trong lực dụng của danh hiệu Phật.
Trí-huệ-hạnh,
vì hiểu biết tất cả tướng trạng và thú hướng của Nhân Quả.
Thiện-hữu-hạnh,
vì cung kính tôn trọng cúng dường tất cả Thiện-tri-thức
để học hỏi Phật Pháp.
Cầu-pháp-hạnh, vì khát
khao mong cầu pháp Bí-mật-tạng, Liễu-nghĩa-tạng của Nhứt-thừa-đạo.
Sám-hối-hạnh, vì thường
đem cả ba nghiệp trong sạch mà đối trước chư Phật, chư Bồ-Tát
phát thệ sám hối, nguyện từ nay về sau không tái phạm.
Trang-nghiêm-hạnh, vì
luôn luôn đem hết thảy công đức hồi hướng trang nghiêm cõi
Phật.
Trì-giới-hạnh, vì
khéo giữ gìn giới luật không sai sót.
Như-Lai hạnh,
vì phát nguyện thành tựu mọi ước muốn của hết thảy chúng
sanh.
5-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào kiên trì, dũng mãnh, xưng
niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật, như mũi tên bắn thẳng tới đích nhắm,
thì thành tựu những pháp Tinh Tấn, nghĩa là không mỏi nhọc nhàn
chán. Như là:
Thân cận tất cả
thiện-trí-thức để cầu học, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Thọ trì tất
cả Phật Pháp, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Nghe học Chánh
Pháp Như-Lai, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Quán sát tư
duy tất cả Phật Pháp, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Thấy rõ chúng
sanh ngỗ nghịch cang cường, mà tâm không mỏi nhọc nhàm
chán.
Giáo
hóa và điều phục tất cả chúng sanh vào pháp môn
niệm Phật, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Đối trước những chướng
duyên hiểm nạn, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Nhìn Phật
đạo dài xa, trắc trở, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
Cúng dường tất cả
thiện-trí-thức như cúng dường chư Phật, mà tâm không mỏi
nhọc nhàm chán.
Thực hành Bồ-Tát
hạnh, mà tâm không mỏi nhọc nhàm chán.
6-. Nầy Vi-Đề-Hy, Bất
cứ chúng sanh nào khẩn thiết, chí thành xưng
niệm Nam-mô A-D-Đà Phật, không xao lãng, thì chứng
đắc những pháp giác tri siêu việt, tối thắng. Như là:
Giác tri tất cả pháp đều
cùng một thể tánh, như lưu ly sáng sạch và thanh
tịnh như hư không.
Giác tri tất cả pháp
luôn hiện bày vô lượng tướng.
Giác tri tất cả pháp
đều xuất phát từ một niệm.
Giác tri tất
cả cảnh trạng nhiễm, tịnh của thế gian đều do thiện
nghiệp và bất thiện nghiệp của chúng sanh hiện ra.
Giác tri tất
cả phiền não, tập khí của chúng sanh đều do vô
minh sanh khởi.
Giác tri tất cả sở hành
của chúng sanh đều như huyễn.
Giác tri tất cả vọng
nghiệp sai biệt của chúng sanh đều lưu xuất từ chân như thường.
Giác tri bản nguyện
lực của chư Phật là thậm thâm vi diệu khó nghĩ bàn.
Giác tri năng
lực hộ trì của chư Phật không bao giờ bỏ sót một chúng
sanh nào cả.
Giác tri tất
cả Phật độ đều bình đẳng, vô ngại.
7-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào chuyên tâm trì niệm danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, dẫu chỉ một ngày cho tới bảy ngày, hoặc nhiều
lần của bảy ngày, thì cảm ứng những năng lực tổng
trì không thể nghĩ bàn. Như là:
Tổng trì tất
cả phước đức, thiện căn đã tích tập trong nhiều kiếp quá
khứ, phát sanh trí tuệ giải thoát.
Tổng trì tất cả
pháp quyết định chân thật, đoạn trừ hết những nghi ngờ, lầm
lẫn.
Tổng trì tất
cả nghĩa lý bí mật của Như-Lai thừa.
Tổng trì tất
cả nghĩa lý sâu mầu của khế kinh do đức Thích-Ca giảng nói.
Tổng trì tất
cả nghĩa lý sâu mầu của khế kinh do đức Thích-Ca giảng nói.
Tổng trì tất cả
Bản-nguyện chư Phật ba đời, mà phát tâm hoan hỷ.
Tổng trì tất
cả vi tế hạnh của chư Bồ-Tát.
Tổng trì tất cả
Tam-muội, thu nhiếp vào trong Niệm Phật Tam-muội, như sữa hòa tan
trong nước.
Tổng trì tất
cả xu hướng Đại-thừa mà không chống trái.
Tổng trì Không
tánh của tất cả pháp hữu vi hoặc vô vi, siêu
việt hữu, vô, đoạn, thường .
8-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào hoan hỷ xưng tán hoặc cung
kính chấp trì danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật dẫu chỉ một niệm, cho tới
mười niệm, hoặc nhiều lần của mười niệm, thì sẽ âm thầm khế hợp với những
thứ Tâm Bình Đẳng. Như là:
Tâm bình đẳng, tích
tập, lưu xuất, và thành tựu tất cả thiện căn, công
đức của chư Phật, chư đại Bồ-Tát.
Tâm
bình đẳng, phát khởi và kiên định tất cả thệ
nguyện.
Tâm bình đẳng nơi
các sắc thân, tướng mạo sai biệt của hết thảy chúng
sanh.
Tâm bình đẳng
nơi nghiệp báo, thú hướng của hết thảy các loại chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi
tất cả tri kiến đúng sai, lành dữ tốt xấu . của hết
thảy các loại chúng sanh.
Tâm bình đẳng nơi
tất cả Phật Pháp và phi Chánh pháp.
Tâm bình đẳng nơi
tất cả giới tịnh uế mà không sanh tâm phân biệt.
Tâm bình đẳng nơi
tất cả hạnh tu không phân biệt.
Tâm bình đẳng
nơi năng lực tiếp độ của tất cả Phật.
Tâm bình đẳng
nơi trí tuệ giải thoát của chư Phật.
9-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào tùy thuận khế kinh mà xưng
niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật với tâm vô cầu thì sẽ phát xuất
những công đức vô-úy bất tư nghị. Như là:
An nhẫn giữa
những chướng ngại, mà mở rộng tâm vô úy.
Hộ trì Chánh
pháp không mỏi nhọc, mà trưởng dưỡng tâm vô úy.
Hàng phục tất
cả ác tri thức, đưa hết thảy vào chánh kiến, nêu cao tâm vô úy.
Vì sự trường
tồn của Chánh pháp, mà phát khởi tâm vô úy.
Vì chí
nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, chẳng tiếc tánh mạng
mà thành tựu tâm vô úy.
Xô dẹp tất cả tà
kiến của ngoại đạo, đánh đổ thiên kiến của nhị thừa,
mà phát tâm vô úy.
Làm cho tất cả chúng
sanh hoan hỷ tu tập pháp Đại-thừa, mà phát
khởi tâm vô úy.
Kiên cố giữ
Bồ-đề-tâm, Bồ-đề-nguyện mà phát khởi tâm vô úy.
Không khinh hủy những
người phạm giới, không dua nịnh những bậc giới
thể hoàn bị, mà phát khởi tâm vô úy.
10-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào phục sức thân tâm bằng danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật thì sẽ đắc những năng lực giải
thoát không thể nghĩ bàn. Như là:
Giải thoát phiền
não, không còn bị thập triền, thập sử, xâm hủy bức hại, nhiễu loạn.
Giải thoát tà
kiến thế gian và tà kiến ngoại đạo.
Giải
thoát những biện giải về sự giải thoát.
Giải
thoát những mục tiêu an trụ Niết-bàn của nhị thừa.
Giải
thoát những trói buộc, áp chế của uẩn, xứ, giới.
Giải
thoát những chấp trước về Phật Pháp.
Giải
thoát những chấp trước về phi Chánh pháp.
Giải thoát tất
cả hí luận về Thật-nghĩa của Nhứt thừa.
Giải thoát tất cả
tri giải sai lầm của sáu căn.
Giải thoát tất
cả hí luận về cảnh giới siêu việt của chư Phật, chư
Bồ-Tát.
Giải thoát hí
luận, biện tài về không tánh, về những pháp vô sở đắc.
11-. Nầy Vi-Đề-Hy! Bất
cứ chúng sinh nào thoáng nghe danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà
Phật, liền tín thọ chấp trì, niệm niệm nối nhau
không gián đoạn, thì sẽ hiển lộ những thứ tâm bất động. Như
là:
Saün sàng xả bỏ tất
cả sở hữu, mà không hề nuối tiếc, do đó tâm được bất động.
Đối với tất
cả chúng sanh, không có lòng não hại, do đó tâm được bất động.
Trong việc nhiếp
hóa chúng sanh, chẳng hề phân biệt kẻ oán người thân. Do đó tâm
được bất động.
Dẫu ham làm
các thiện sự nhưng chỉ gặp thất bại, hủy nhục nhưng không hề lui
sụt bồ đề tâm nguyện. Do đó tâm được bất động.
Tư duy, quán
sát diệu nghĩa của tánh không mà chẳng hề sợ sệt, ngăn ngại. Do
đó tâm được bất động.
Nhìn ngũ
trược ác thế, thấy chúng sanh say sưa nô đùa với tám
món điên đảo, mà không chán ghét, bỏ lìa, khinh chê. Do đó tâm
được bất động.
Nghe những pháp khó tin,
khó hiểu của Đại-thừa mà ghi nhớ không quên. Do đó, được tâm bất động.
Dẫu sống trong thế
pháp nhiễm ô, mà vẫn tu tập phạm hạnh, hộ trì tịnh
giới. Do đó tâm được bất động.
Nơi chỗ sở đắc, và nơi chỗ vô
sở đắc, luôn luôn giữ lòng an nhiên, chẳng náo loạn. Do đó được
tâm bất động.
Đối với kẻ trí nhỏ,
khinh chê pháp Đại-thừa, mà mình cũng không sanh lòng giận hờn, ghét bỏ. Do đó
tâm được bất động.
12-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào nhất tâm xưng niệm danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật, dẫu với tâm thái nào đi nữa, thuận ý
hoặc nghịch ý, ham thích hoặc chống trái, đều thâu hoạch vô
số Trí Lực bất tư nghị. Như là:
Trí lực Quán Chiếu,
thấy rõ tất cả các pháp đều do nhân duyên sanh khởi.
Trí lực Như Thật, nhận
biết tất cả các pháp đều chẳng thật, đều như huyễn hóa, mộng mị.
Trí lực Như Như,
thấy rõ tất cả các pháp không đối nghịch, mâu thuẫn.
Trí lực Vô Úy, thấy
rõ tất cả các pháp biến dịch không ngừng, sanh, trụ, dị, diệt
từng sát na, mà chẳng tham luyến hay sợ hãi.
Trí lực Kim Cương,
vì thực hành hạnh nguyện Bồ-Tát, lợi lạc quần mê, mà
chẳng dính mắc vào ngã tưởng, nhân tưởng, chúng sanh tưởng, thọ
giả tưởng.
Trí lực Tịch Tịnh,
vì trực nhận sâu xa cái bản thể vắng lặng, thường
trụ thanh tịnh các pháp.
Trí lực Viên Mãn,
vì tuy khẩn thiết cầu sanh Cực-Lạc mà vẫn nguyện trở
lại Ta-bà cứu độ chúng sanh.
Trí lực Thiện Xảo,
vì khéo léo phân biệt ý nghĩa chân thật của các pháp và
khéo léo sử dụng phương tiện để dìu dắt chúng sanh.
Trí lực Thậm Thâm,
vì tương ứng với đạo Nhứt-thiết-trí.
Trí lực Vô Ngại,
vì hiểu biết tâm ý và sở hành của chúng sanh, nhẫn nại làm cho
họ phát Bồ-đề-tâm, hoan hỷ siêng tu kiên cố, bất thối.
Trí lực Tối Thắng,
vì tự nhiên tin nhận vô biên diệu dụng của hồng
danh Nam-mô A-Di-Đà Phật, mà chẳng phân vân thủ xả.
13-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu, hoan hỷ thọ
trì danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, cho
tới nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp quyết định bất khả
tư nghị. Như là:
Quyết định đời
đời thọ sanh trong dòng giống Như-Lai.
Quyết định vĩnh
viễn an trú trong cảnh giới vô lượng quang minh nghiêm
sức của chư Phật.
Quyết định thấu
triệt công hạnh, tâm nguyện của chư Bồ-Tát.
Quyết định an trụ
trong vô số các môn Ba-la-mật.
Quyết định tham
dự trong những chúng hội đạo tràng của Như-Lai.
Quyết
định đủ năng lực hiện bày thể tánh và chủng tướng của
chư Như-Lai.
Quyết định an trụ
trong trí tuệ siêu việt, giải thoát của Như-Lai, thâm
nhập Bồ-đề giác tánh của chư Phật.
Quyết định an trụ
trong bản nguyện vĩ đại của đức Phật A-Di-Đà, chắc
chắn được Ngài tiếp dẫn.
Quyết định hòa
hợp thân và tâm vào trong kim thân của chư Phật.
Quyết định hóa
sanh tự nơi hoa sen báu, cùng một chỗ ở với chư Phật, chư
Thánh-chúng.
14-. Nầy Vi-Đề-Hy, bất
cứ chúng sanh nào quyết liệt đối với Bồ-Tát đạo, luôn tinh
tấn xưng niệm Nam-mô A-Di-Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, hoặc
nhiều lần của bảy ngày. Liên tục như vậy, trọn đời không
mỏi nhọc, thì chắc chắn thành tựu mười giới pháp thanh
tịnh, xứng đáng là bậc tôn quý trong hàng Nhân Thiên. Như là:
Thanh-tịnh giới nơi
Thân, vì xa lìa nghiệp sát sanh, dâm dục, trộm cắp.
Thanh-tịnh giới nơi
Miệng, vì xa lìa bốn nghiệp dữ là nói dối, nói thiêu dệt, nói
lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác.
Thanh-tịnh giới nơi Ý,
vì xa lìa ba nghiệp xấu nơi ý, đó là tham lam, sân
hận, tà kiến.
Bồ-đề-tâm giới,
nơi sự nghiệp tuệ giác, vì chẳng ưa thích pháp Tiểu-thừa,
mà đặt trọn chí hướng nơi Phật Tri Kiến.
Ba-la-mật giới
nơi sự nghiệp hóa độ tất cả chúng sanh, vì thực
hành vô lượng Ba-la-mật, khéo dẫn dắt chúng sanh vào
Như-Lai thừa.
Thâm-mật giới
nơi phương tiện thiện xảo, vì giữ gìn Giới Thể trong
sạch như lưu ly, và khéo cứu vớt tất cả chúng sanh trót
hủy phạm giới luật.
Nhiếp-thọ Giới
nơi đại nguyện viên mãn, vì luôn ngăn ngừa chúng
sanh làm những việc ác mà chỉ giúp họ làm các việc lành.
Nhứt-thiết-nghĩa không
giới, vì thấu triệt trọn vẹn nghĩa lý mật nhiệm
của không tánh, rời bỏ tất cả kiến chấp hữu lậu cũng
như buông bỏ ngay cả Trí Tạng vô lậu.
Thủ-hộ giới, vì nơi tất
cả chúng sanh, luôn phát khởi lòng đại bi đưa hết thảy
vào Như-thật-đạo, không để chúng sanh rơi vào tà kiến, và đọa
vào ba đường dữ.
Tùy-nhạo giới, vì luôn
khiêm cung, chất trực và nhu hòa. Không bao giờ rêu rao lỗi
lầm của chư Tỳ-kheo, chư Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, cũng như những
người sơ học.
15-. Nầy
Vi-Đề-Hy, giả sử đem muôn ức na-do-tha hằng hà sa quốc
độ mà nghiền thành vi trần, cứ mỗi mỗi vi trần là
một đại kiếp. Dùng khoảng thời gian vô cùng dài lâu ấy, để
diễn nói tất cả năng lực bất tư nghị của danh
hiệu Nam-mô A-Di-Đà phật, thì cũng không thể nào diễn nói cho đầy đủ hết
được.
Nay ta tạm tuyên
thuyết ít phần trong vô lượng vô biên bất khả thuyết, bất
khả thuyết, năng lực bất tư nghị của danh hiệu thù
thắng, vi diệu đệ nhất ấy. Ngươi hãy tín thọ, ghi nhớ, suy
gẫm, và nhất tâm phụng trì.
Ngài Quán-Thế-Âm vừa dứt
lời, bấy giờ mười phương chư Phật đồng hiện ra khen rằng:
Lành
thay ! lành thay ! Phật tử Quán-Thế-Âm thực
hiện việc làm hi hữu. Khéo vì chúng sanh thời Mạt
pháp mà xưng tán, tuyên dương năng-lực bất tư
nghị của danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Ai nhất
tâm xưng niệm danh hiệu ấy, sẽ được chư Phật hộ trì
và nhiếp thọ, quyết định thành Phật.
PHẨM
THỨ BẢY
KHUYẾN
PHÁT NIỆM PHẬT và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
PHẦN CHÁNH TÔNG
NIỆM
PHẬT VỚI “TỊNH MẬT” VIÊN THÔNG
Lúc bấy giờ, ngài
Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát bạch Phật rằng:
- Thưa Thế-Tôn, con nay
vì thương tưởng chúng sanh nơi thời Mạt pháp, khi ấy kiếp
giảm, thọ mạng ngắn, phước đức kém thiếu, loạn trược tăng nhiều,
kẻ chân thật tu hành rất ít. Con sẽ ban cho người niệm
Phật thần chú Đà-ra-ni nầy, để thủ hộ thân tâm, nhổ tận gốc
rễ nghiệp chướng trừ sạch phiền não, được mau chóng sanh về
Cực-Lạc. Gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc
Sanh Tịnh Độ Đà-ra-ni. Liền nói thần chú:
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN
BỔN
ĐẮC
SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM MÔ A DI
ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ
TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN
ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA
LỆ TA BÀ HA.
Người niệm
Phật phải giữ giới, ăn chay, thân khẩu ý đều
phải thanh khiết. Ngày đêm sáu thời, mỗi thời tụng hai mươi mốt biến. Như
vậy, diệt được các tội: Tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, và hủy
báng Chánh pháp. Thường được đức Phật A-Di-Đà hiện trên đỉnh
đầu. Hiện đời an ổn, phước lạc. Hơi thở cuối cùng, được tùy
nguyện mà vãng sanh Cực-Lạc. Hoặc tụng đến ba chục muôn biến, liền
thấy Phật ngay trước mặt mình.
Bấy giờ, ngài
Quán-Thế-Âm Đại Bồ-Tát bước ra trước Phật, bạch rằng:
- Nay con nương uy
thần của đức A-Di-Đà, mà ban cho chúng sanh quyết
chí niệm Phật thời Mạt pháp, một chân ngôn gọi là: Vô
Lượng Thọ Như-Lai Chân Ngôn. Đây là tạng pháp bí mật của
Phật A-Di-Đà, ẩn chứa vô biên thần lực tự tại bất tư nghị.
Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di lỡ phạm
giới căn bản, tụng xong bảy biến liền trở lại được giới
phẩm thanh tịnh. Tụng hai mươi mốt biến, tiêu diệt các tội: Tứ
trọng, ngũ nghịch, thập ác và tất cả chướng ngại trên
bước tu hành đều trừ sạch. Hiện đời an lạc, thuận lợi, được
sự nhiếp thọ của vô lượng Như-Lai. Tụng một muôn biến, tâm
Bồ-đề hiển hiện nơi thân không quên mất. Thấy đức
Phật phóng quang tụ trên đỉnh đầu. Người niệm Phật lần
lần thể nhập tịnh tâm tròn sáng mát mẻ, tiêu
tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả niệm
Phật liền thấy Phật A-Di-Đà cùng vô lượng muôn ức Bồ-Tát vây
quanh, an ủi, tiếp dẫn. Người niệm Phật tức khắc được sanh
về Thượng phẩm ở Cực-Lạc.
- Sau đây, con xin tuyên
đọc Vô-Lượng-Thọ Như-Lai chân ngôn:
VÔ
LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHƠN NGÔN
NAM MÔ
RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ
A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI.
SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM
! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ
VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI
TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI
RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI
RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA
LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
Ngài Quán-Thế-Âm vừa đọc
xong bài chân ngôn ấy, bỗng vô lượng vô biên vô
số thế giới đều chấn động sáu cách, quang minh
chiếu rực cả mười phương. Đức Thích-Ca cùng chư Phật khắp thế
giới hư không giới, đồng thanh khen ngợi : "Lành thay
! Lành thay !"
Lúc bấy giờ, Diệu-Nguyệt trưởng giả vui mừng vô hạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo phơi bày vai hữu, đi nhiễu quanh đức Phật Thích-Ca ba vòng, rồi chấp tay, quỳ gối, hướng lên đức Phật mà đọc kệ khen ngợi :
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
Lúc bấy giờ, trưởng-giả
Diệu-Nguyệt ở trước đức Thế-Tôn, đọc bài kệ khen ngợi Phật
rồi, thành khẩn thưa hỏi như thế nầy:
Kính bạch đức Thế-Tôn
Toàn-giác, Toàn-trí, kinh này tên gọi là gì ? Chúng con phải thọ
trì như thế nào ?
Phật bảo ông
Diệu-Nguyệt trưởng giả rằng:
Kinh này gọi là NIỆM PHẬT BA LA MẬT, còn gọi là XƯNG TÁN HỒNG DANH CÔNG ĐỨC KINH cũng có tên là NIỆM PHẬT BÁT NHÃ TAM MUỘI KINH.
CÁC NGƯƠI Y THEO ĐÓ MÀ THỌ TRÌ.
PHẨM
THỨ BẢY
KHUYẾN
PHÁT NIỆM PHẬT và
ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN
PHẦN LƯU THÔNG
Đức Phật A-Di-Đà và Phật Thích-Ca cùng hai vị Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm và Phổ-Hiền, KHUYẾN PHÁT NIỆM PHẬT và ĐỌC TỤNG CHƠN NGÔN, để lưu thông bộ KINH Niệm Phật Ba-La-Mật.
Nầy Diệu-Nguyệt, trong
thời Mạt-pháp, các kinh điển Đại-thừa đều diệt tận. Nơi cõi Nam
Diêm-phù-đề nầy chỉ có kinh này tồn tại.
Đức Phật A-Di-Đà cùng
Ta (PHẬT THÍCH CA), đều rộng lòng từ bi mà lưu trụ kinh này
thêm TRĂM NĂM nữa.
Hai vị Đại
Bồ-Tát Quán-Thế-Âm và Phổ-Hiền đồng phát
nguyện thủ hộ kinh nầy, và che chở những người niệm
Phật, khiến những kẻ chống trái và các ác ma không thể làm nhiễu loạn
bức hại được.
Đức Thích-Ca
Mâu-Ni Thế-Tôn nhìn chúng hội đạo tràng, mà bảo rằng:
Nầy đại chúng,
nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người
nào thọ trì, đọc tụng, suy gẫm, biên chép Kinh Niệm
Phật Ba-La-Mật nầy, thì các ngươi phải biết người ấy trong vô lượng vô
biên bất khả tư nghị kiếp lâu xa đã từng gặp gở, thân cận, cúng
dường tôn trọng chư Phật. Người ấy vốn thật sự từ Bát
Nhã Trí sanh ra, đời đời thực hành giáo
pháp Như-Lai vô tận tạng.
Nầy đại chúng,
nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa, nếu có người
nào thoáng nghe qua Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy, mà phát
khởi tín tâm chắc thật, chẳng nghi sợ thì các ngươi phải biết người
ấy ở trong vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp lâu xa
từng dũng mãnh phát Bồ-đề tâm, tu Bồ-Tát hạnh, không mỏi nhọc, và nơi
chư Phật từng gieo trồng Giải-thoát-đức, Bát-nhã-đức, Pháp-thân-đức
chẳng thể tính đếm, thí dụ được.
Nầy đại
chúng ! Nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, hoặc về sau nữa,
nếu có người nào tin nhận, ghi nhớ rõ ràng nghĩa thú của
Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy, rồi nương theo đó xưng
niệm danh hiệu Nam-mô A-Di-Đà Phật. Dẫu một niệm, hai niệm, cho tới
mười niệm hoặc nhiều lần của mười niệm thì các ngươi phải biết người
ấy chắc chắn được Phật thọ ký, hiển phát năng
lực của tánh không, tỏ ngộ tri kiến Như-Lai, và bước thẳng
vào cảnh giới Thánh Trí tự chứng.
Nầy đại chúng, nếu
các ngươi thấy người nào thọ trì kinh này, và thường
xuyên niệm Phật, thì phải khởi lòng tôn trọng y như kính
ngưỡng chư Phật vậy. Chớ nên móng tâm ngăn trở người thọ
trì kinh nầy, chẳng được phơi bày lỗi lầm, sai trái của
người niệm Phật.
Nầy đại chúng, nên
biết rằng, vô lượng vô biên muôn ức na do tha vi trần
số Hóa-thân và Ta khắp tất cả quốc độ trong mười phương,
cũng đều giảng nói KINH NIỆM PHẬT BA-LA-MẬT, cũng đều khuyến
phát chúng sanh siêng năng niệm Phật. Tất cả chư Phật phân
thân của Ta luôn luôn phóng đại quang minh nhiếp
thọ và thủ hộ những chúng sanh niệm Phật, không bỏ
rời.
Lúc Phật dạy kinh nầy
xong rồi, chư vị Đại Bồ-Tát ở mười phương, chư vị trưởng-lão Thanh-văn,
như các ngài Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, Ma-Ha Ca-Diếp ... cùng các Trời, Rồng,
Dạ-xoa, nhân, phi nhân ... tất cả đại chúng đều
rất hoan hỷ, thọ trì lời Phật dạy, ân cần đảnh
lễ mà lui ra.
KINH NIỆM
PHẬT BA-LA-MẬT
CHUNG
lưu trụ kinh này thêm TRĂM NĂM nữa
VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A-Di-Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên nay chúng con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
NAM MÔ LIÊN TRÌ HẢI HỘI PHẬT BỒ TÁT (3 lần)
BẠT NHỨT THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN
ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ RA NI
NAM MÔ A DI ĐA BÀ DẠ, ĐA THA DÀ ĐA DẠ, ĐA ĐIỆT DẠ THA.
A DI RỊ ĐÔ BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TẤT ĐAM BÀ TỲ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐẾ, A DI RỊ ĐA TỲ CA LAN ĐA, DÀ DI NỊ DÀ DÀ NA, CHỈ ĐA CA LỆ TA BÀ HA.
(21 lần... hoặc 108 lần)
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(21 lần... hoặc 108 lần)
Lúc bấy giờ, Diệu-Nguyệt trưởng giả vui mừng vô hạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo phơi bày vai hữu, đi nhiễu quanh đức Phật Thích-Ca ba vòng, rồi chấp tay, quỳ gối, hướng lên đức Phật mà đọc kệ khen ngợi :
Đức Phật Thế-Tôn, Chánh Biến Tri
Tướng hảo đoan nghiêm đều viên mãn,
Rủ lòng đại từ bi vô hạn,
Mở bày đại pháp cứu quần mê.
Niệm Phật hiện tiền đắc Phật tướng,
Thâm nhập cảnh giới bất tư nghị.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Quyết định một lòng xưng niệm Phật,
Hồng danh chứa nhóm vô lượng nghĩa,
Lợi lạc muôn ức chúng hữu tình.
Đức Phật Thế-Tôn, đấng Vô-thượng
Tri kiến, giác ngộ đều quang minh,
Rắc rải tuệ nhật khắp mười phương,
Rưới trận mưa pháp như Cam lộ.
Niệm Phật vãng sanh cõi Cực-Lạc,
An nhiên chứng đắc Vô-Sanh-Nhẫn.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Gìn giữ thân tâm bằng Phật hiệu,
Hồng danh tỏ ngộ Chân Như Tánh,
Dẫn dắt chúng sanh vào Tam-muội.
Đức Phật Như-Lai đấng Bất-động
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đoạn thường,
Xa lìa chấp hữu hoặc chấp vô,
Tự tại chỉ bày phương tiện lực.
Niệm Phật an trụ nơi bản giác,
Tùy nghi hòa hợp với tánh Không.
Nhân đây Bồ-Tát Sơ phát tâm,
Trang nghiêm tự thân bằng niệm Phật,
Hồng danh hiển phát Hư-Không-Tạng,
Tức thời thẳng vào Viên-giác-tánh.
Con nay xưng tán Đại Đạo-Sư,
Khen ngợi hồng danh vô lượng lực.
Nguyện đem hồi hướng khắp chúng sanh,
Mong cầu hết thảy cùng niệm Phật.
HỒI HƯỚNG
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
(1.080 CÂU)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A-Di-Ðà Như-Lai biến pháp giới Tam bảo (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG ÐẢNH LỄ: Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
UM! BÚT RUM! HÙM!
(AUM ! BHRUM, HŪM.)
CHUNG
Chuyên tụng VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI
CHÂN NGÔN hoặc BẠT NHỨT
THIẾT NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ
RA NI cũng được vãng sanh,
nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì
chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút-giả
lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung
hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – KÝ SỐ NIỆM:
Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người
hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu.
Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10
câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là KÝ SỐ.
2 – CHỨNG SỐ NIỆM: Khi
niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu,
liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là CHỨNG SỐ. Lúc này tâm hành
giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 – CHỈ QUÁN NIỆM: Lúc
mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là
CHỈ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha
thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý
tưởng đến Phật đó, gọi là QUÁN. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn
dùng phép CHỈ, hôn trầm dùng phép QUÁN.
4 – TỊCH TĨNH NIỆM: Khi
Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ
tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng
xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn
hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là
Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là TỊCH TĨNH NIỆM.
Pháp
thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút-giả đã suy
tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong
nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của Tăng,
Không tin Ðại Thừa, báng Chánh Pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật danh
Di Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại bi.
Comments
Post a Comment