LAM
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT
Quang, thọ khó suy lường,
Sáng lặng khắp mười phương.
Thế Tôn Vô Lượng Quang,
Cha lành cõi Liên ban.
Thần lực chẳng tư nghì,
Sống lâu A tăng kỳ.
A-Di-Đà Như Lai,
Tiếp dẫn lên liên đài.
Cực Lạc cõi thuần tịnh,
Công đức lạ trang nghiêm.
Nơi tất cả quần sanh,
Vượt lên ngôi Bất thối.
Mười phương hằng sa Phật.
Đều ngợi khen Vô Lượng.
Cho nên nay chúng con,
Nguyện sanh về An Dưỡng.
NAM MÔ LIÊN TRÌ HẢI HỘI PHẬT BỒ TÁT (3 lần)
HÙM!
VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI CHÂN NGÔN
NAM MÔ RÁT NA TRA DẠ DA.
NAM MÔ A RỊ DA. A MI TÁ BÀ DA. TÁT THA GA TÁ DA. A RA HA TI. SAM DẮT SAM BUÝT ĐÀ DA. TÁT DA THA.
UM ! A MI RỊ TI. A MI RỊ TÔ NA BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ SAM BÀ VÊ. A MI RỊ TÁ GA BÊ. A MI RỊ TÁ SUÝT ĐÊ. A MI RỊ TÁ SI TÊ. A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÊ.
A MI RỊ TÁ VI CA LĂN TÁ GA MI NỊ. A MI RỊ TÁ GÀ GA NA KY TI CA LI. A MI RỊ TÁ LÔ ĐÔ VI SA PHẠ LI. SẠT VA RỊ THÁ SA ĐÀ NI. SẠT VA MA CA LI. SA KHẤT SÁ DU CA LI. SÓA HA.
UM! BÚT RUM! HÙM!
(108 lần)
PHẬT THUYẾT
KINH A DI ĐÀ
NHƠN HẠNH VÃNG SANH
Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-Ðà Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn.
Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-Ðà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền.
Thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng sanh A-Di-Ðà Phật Cực-lạc quốc-độ.
Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn.
Nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC THẾ GIỚI
ÐẠI TỪ ÐẠI BI TIẾP DẪN ÐẠO SƯ A DI ÐÀ PHẬT
(Kế tiếp niệm)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
( Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng
sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh, nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật.
Về cách trì niệm, Bút giả lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 – Ký số niệm: Hành
giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 5 câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ 1 đến 10 câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 – Chứng số niệm: Khi
niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ 1 đến 10. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên. Đó gọi là chứng số. Lúc
này tâm hành giả được tự tại hơn. Ý niệm càng chuyên nhứt.
3 –Chỉ quán niệm: Lúc
mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm, liền khởi ý niệm Phật tha thiết, tựa như con sa vào vòng tội khổ, gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán. Hai cách nầy cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 – Tịch tĩnh niệm: Khi
Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến Giai-đoạn nầy Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tĩnh niệm.
Pháp
thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, Bút giả đã suy tư nghiên cứu, vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích lại cho hàng liên hữu.)
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn
Phật, chắp tay niệm)
Nam mô A-Di Ðà Phật (niệm mau 10 hơi)
Nam mô Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Ðại-Nguyện Ðịa-Tạng-vương Bồ-tát (3 câu)
Nam mô Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát (3
câu)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Đệ tử chúng con, hiện là phàm phu, trong
vòng sanh tử, tội chướng sâu nặng, luân chuyển sáu đường, khổ không nói được. Nay
gặp tri thức, được nghe danh hiệu, bản nguyện công đức, của Phật Di Đà, một lòng xưng niệm, cầu nguyện vãng sanh. Nguyện Phật từ bi, xót thương chẳng bỏ, phóng quang nhiếp thọ. Đệ tử chúng con, chưa biết thân Phật, tướng tốt quang minh, nguyện Phật thị hiện, cho con được thấy. Lại thấy tướng mầu, Quán Âm Thế Chí, các chúng Bồ Tát và thế giới kia, thanh tịnh trang nghiêm, vẻ đẹp quang minh, xin đều thấy rõ.
Con nguyện lâm chung không chướng ngại,
A Di Đà đến rước từ xa.
Quán Âm cam lồ rưới nơi đầu
Thế Chí kim đài trao đỡ gót.
Trong một sát na lìa ngũ trược,
Khoảng tay co duỗi đến liên trì.
Khi hoa sen nở thấy Từ Tôn
Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ.
Nghe xong liền CHỨNG Vô Sanh Nhẫn,
Không rời An Dưỡng lại Ta Bà.
Khéo đem phương tiện lợi quần sanh
Hay lấy trần lao làm Phật sự,
Con nguyện như thế Phật chứng tri.
Kết cuộc về sau được thành tựu.
(
Bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyện văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng)
Tây phương cực lạc thế-giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô-lượng vô-biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư, Pháp giới Tạng thân A-DI-ÐÀ NHƯ-LAI biến pháp giới Tam bảo. (1 lạy)
Tự qui y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm (1 lạy)
Tự qui y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải (1 lạy)
Tự qui y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại (1 lạy)
NHỨT TÂM QUY MẠNG LỄ:
Phương Liên Tịnh Xứ Mật-Tịnh đạo tràng, TRÚC LIÊN BỔN THẤT, CỐ HÒA THƯỢNG TỔ SƯ, Thích Thượng Thiền hạ Tâm thùy từ minh chứng (1 lạy)
LỜI
SAU CÙNG
Bút giả cố gắng hoàn tất
quyển cuối Mấy Điệu Sen Thanh nầy, giữa lúc sức khỏe suy kém, thêm bị sự khuấy
rối lấn bức của cả ngoài lẫn trong rình rập bao vây. Nhớ lời Phật dạy trong
kinh Pháp Hoa: “Vào lúc kiếp trược rối loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng
nề, đầy niệm tham, sân, si, ganh ghét, thành tựu các căn chẳng lành”. (Kiếp
trược loạn thời, chúng sanh cấu trọng, tham si tật đố, thành tựu chư bất thiện
căn).
Lại xem trong Đà Ra Ni
Tạp Tập thấy một đoạn, xin trích dịch nguyên văn như sau:
“Bạch đức Thế Tôn! Con
là Thiện Danh Xưng Bồ Tát, từ cõi đức Phật Tịnh Nguyệt Âm Vương ở phương Bắc,
nay đến thế giới Ta Bà. Con thấy nơi cõi nầy vào thời mạt, khi Phật pháp sắp
muốn diệt, nhơn sanh phần nhiều tạo ác, tham đắm danh lợi, thị phi bôi xấu giết
hại lẫn nhau. Giữa vua tôi, chủ tớ, cha con, thầy trò, chồng vợ, bè bạn, anh
em, không còn đạo nghĩa, nước ngũ trược sôi trào, lửa tam tai bừng cháy. Các
việc vừa nói, đều do chúng sanh kiếp trước chấp chứa nhiều tội ác, không tu đức
lành, đời hiện tại mới bị cộng nghiệp sống trong hoàn cảnh như thế. Vào thời
gian đó, nhơn loại tuy bề ngoài mang thân người, nhưng trong tâm ngu si độc dữ
chẳng khác súc sanh ác quỉ. Thương thay cho thời mạt!
Trong năm ngàn người,
may ra chỉ được vài kẻ lương thiện biết lo tu hành. Nay xin đức Thế Tôn hứa
nhận cho con nói môn thần chú Vân Nhã Mật Tu, để chúng sanh đời sau được dứt
trừ gốc tội nhơ, thân tâm trở nên trong sạch, xa lìa ách nạn”.
Sau khi được Phật chấp
thuận, Bồ Tát liền thuyết chú rằng:
Ophú Ophú para téna Jũgu
jũgu para téna yujnamid yujnamid para téna Osuto. Chi paio Kụjnãto Yamidto.
Kúrato. Thopato. Svaha.
”Bạch đức Thế Tôn! Đại
thần chú nầy như chiếc lọng lớn che trùm tất cả. Lại cũng như cơn mưa to thấm
nhuần tất cả, như cầu thuyền nổi thông chở tất cả. Chúng sanh hàng đạo tục đời
sau, đều nương nhờ Đà ra ni đây mà nẩy mầm mộng lành, thắm nhuần mùi pháp vị.
Công năng của đại thần chú nầy, hay cứu vớt muôn hạng căn cơ sai khác, đưa về
cảnh giới nhứt không, khiến cho họ sớm chúng tam thừa thánh quả…”
Qua mấy đoạn văn trên,
lời đức Phật dạy và Bồ Tát Thiện Danh Xưng trần thuật, dường như đã ứng hiện
vào thời buổi nầy. Riêng trong nhà Phật còn có những cảnh:
Giường lau đèn tối tăng
vào định
Trăng lạnh cành thông bóng hạc về!
(Mâu tháp đăng hôn tăng nhập định
Tùng chi nguyệt lãnh hạt phi hoàn!)
Hoặc
Chợt sang trúc viện cùng
tăng luận
Trộm được phù sinh nửa buổi nhàn!
(Hối qua trúc viện phùng tăng thoại
Du đắc phù sinh bán nhựt nhàn!)
Lúc còn ở Phật học viện
Huệ Nghiêm, ưong cuộc mạn đàm với một bậc tiền bối, vị ấy có nói với bút giả
mấy lời vừa có tánh cách bông đùa vừa ngụ ý than thở như sau: “Hiện nay trong
cửa đạo có nhiều việc phức tạp, trừ phi Bồ Tát ra đời chấn hưng lại, còn phàm
Tăng như chúng ta không làm sao điều chỉnh nổi. Hoàn cảnh thật giống như hai
câu thi của một danh nhơn thời xưa:
“Ca sa vị trước hềm đa
sự.
Trước bãi ca sa sự cánh đa!”
(Chưa khoác ca sa chán việc nhiều.
Khoác rồi thêm việc biết bao nhiêu!)
Nhưng có điều không đúng
với nguyên ý của vị danh nhơn kia, đây chẳng phải việc đạo mà lại là việc khác!
Chẳng những riêng đạo Phật, mà tất cả các tôn giáo đều có tình trạng tương tợ
như thế. Đây đều do lòng người, thật quả là thời đạo đức suy mạt!’
Trong đạo đã như thế,
ngoài đời lại còn biến loạn hơn, từ quốc gia cho đến khắp thế giới cảnh bạo ác
ngày thêm tăng mạnh, con người hầu hết sống trong vòng lường gạt, sa đọa, tranh
đua, giết hại lẫn nhau. Cuộc diện kéo dài đến hiện tại, “buổi tận thế” hay “cơ
tận diệt” mà các tôn giáo khác mô tả, đã có phần lấp ló lộ hình. Tuy biết đó là
cộng nghiệp của nhơn sanh, nhưng khi nhìn thấy nỗi khổ đau khắp đồng loại, trải
nhiều cơn biến đồi dập dồn, những kẻ hữu tâm cũng sanh niềm hoài cảm! Họ không
biết tương lai sẽ đi về đâu, chán nản cho mình cùng người trong kiếp sống thừa
cảnh tạm! Thỉnh thoảng nghe vài nhơn sĩ cao niên đã mượn lời của Nguyễn Du mà
thầm lén than thở như sau:
Kể từ gây cuộc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu!
Hay là:
Chân trời mệt bể linh
đinh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Và cho đến như:
… Còn
ngày nào cũng dư ngày ấy thôi
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Trong hoàn cảnh ấy, muốn
thoát mối nguy tương hoại tương tàn, nhơn loại phải hướng về đạo đức. Theo lời
Phật dạy, ngày sau do chúng sanh buông lung theo nghiệp sát, đạo, dâm, vọng nên
sẽ có Tam tai ác kiếp là: chiến tranh tàn phá, tật bịnh lan tràn và đói rách
nghèo khó nổi lên. Kẻ nào muốn tiêu giảm nỗi thống khổ, phải giữ chắc bốn giới:
không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, dối gạt, tùy sức mình mà gắng làm các điều
lành. Những người ấy sẽ được thiên thần ủng hộ, khiến cho nạn khỏi tai qua. Nếu
tiến thêm, muốn tìm nẻo thoát ly, phải tụng kinh hoặc trì chú và chí tâm niệm
hồng danh đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc.
Căn cứ theo luật nhân
quả, mọi sự khổ vui đều do nghiệp lành dữ và bởi vô minh gây tạo. Trong cảnh
nóng bức của nhà lửa tam giới, phải bền lòng an nhẫn, phải thiết thật phụng
hành đúng như lời Phật dạy Đùng nên mãi hờn trách thở than, vì kết cuộc sẽ hóa
ra vô ích. Trên đây là lời phụng khuyến, là đường lối thoát ly duy nhứt, mà
những kẻ học đạo muốn nhắn nhủ với đồng nhơn.
THÍCH
VÔ NHẤT
(Lấy
ý câu: Nhất sự vô thành thân tiệm lão)
ÐÔI LỜI PHI LỘ
Ba tạng Kinh-điển của
Phật-giáo hiện nay gồm có đến hơn vạn quyển. Trong ấy, những Kim-ngôn của Ðấng
Ðiều-Ngự và huyền-nghĩa của chư Tổ, hàm ẩn Ðạo-lý thâm thúy vô biên. Muốn du
ngoạn trong bể Phật-pháp bao la, hay lên đỉnh non thánh-giáo để nhìn khắp nơi bằng
tầm mắt càn-khôn-nhất-lãm, phải phí nhiều thời giờ và tâm lực, mà giữa cuộc
sống nhiều vướng bận ngày nay, ít ai làm nổi. Vì lẽ ấy, đã từ lâu bút giả có ý
muốn gom góp phần tinh yếu của thánh-giáo viết ra thành tập, để giúp những vị
mến đạo mầu của Ðức Thế-Tôn, có sự hiểu biết khái quát về pháp Phật. Và ý định
nầy đã được thực hiện từ năm 1963, nhân lúc sắp sửa ra đảm nhận trường Phật-Học
Huệ-Nghiêm.
Nội dung của toàn tập
PHẬT HỌC TINH YẾU sau đây gồm có nhiều thiên, mỗi thiên phân thành nhiều
chương, và mỗi chương bao hàm nhiều mục. Ðó là hệ thống phân biệt để duyệt giả
dễ ghi nhận. Ðiều đáng chú ý là phần trích dẫn những Kinh-luận trong đây, nghĩa
lý nó không có tánh cách nhất định. Tại sao thế? Bởi giáo pháp của thánh-nhân
nói ra đều tùy thời tùy cơ để dắt dìu, phá chấp. Có thể một lời thuyết giáo đối
với căn cơ nầy thích hợp nhưng với cơ khác không thích hợp, với thời gian trước
tiện nghi song với thời nay không tiện nghi. Cho nên một vị tôn túc đã bảo: “Y
theo Kinh giải nghĩa là oan cho chư Phật ba đời, nhưng lìa Kinh một chữ tức
đồng với ma thuyết”. Vậy chỗ thu thập của người khéo học Phật là không chấp
Kinh, không bỏ Kinh, như người đời đã bảo: “Khôn chết, dại cũng chết, duy biết
mới sống”. Và người khéo học Phật cũng đừng chấp lý bỏ sự, hay chỉ theo sự quên
phần lý. Về việc được ý quên lời nầy, duy mỗi người tự thể hội, không thể nói
hết được.
“Trần chẳng tương quan,
bể cả nương dâu mặc thay đổi.
Lòng không sở đắc, thông
xanh mây trắng tự vui nhàn”.
Xin mượn hai câu nầy để
chúc sự thành tựu của duyệt giả sau khi đọc xong toàn tập PHẬT HỌC TINH YẾU.
Ngày
12-8-1965
Tỳ-khưu
Thiền Tâm, tự Liên Du
Đài
Gương Tịnh Hạnh
(Lược
thuật về hạnh nghiệp của Vô Sanh nữ sĩ)
Nữ sĩ
họ Hồ, tên Học Kiên, pháp danh Hiển Nhẫn, tự Vô Sanh, người ở tỉnh Hồ Nam,
huyện Ích Dương. Cha cô tên Diệu Hoàng, tự Thôi Sơn, mẹ họ Điền, đều là những
họ có tiếng ở đất Tương cả. Nữ sĩ sanh bình có đặc tính cứng cỏi mà hay thương
người, thông minh mà mộ đạo, hoạt bát mà không lưu chuyển theo thế tục.
Thấy
người bị khổ nạn, cô liền tận tâm cứu giúp, chẳng kể cừu oán, công ơn, lại hằng
tôn trọng bậc có đức, nghe lời lành như được của báu. Lúc còn thơ ấu, nữ sĩ ưa
cung kính thần linh, thích cảnh chùa miếu u nhàn, thấy thánh tượng liền cúi
lạy, đặc biệt tôn trọng ngôi Tam Bảo.
Huỳnh
thị, chị dâu họ, tánh từ ái ôn hòa, đối đãi với cô rất có thâm tình, một hôm
bỗng vương bịnh rồi mất. Lúc ấy mọi người trong quyến thuộc đều khóc than kể
lể, riêng nữ sĩ chỉ yên lặng xót đau, hằng suy nghĩ:
“Nhơn
sanh hà tất có chết?
Tình
trạng sau khi chết như thế nào?
Làm
sao cho khỏi các điều khổ trong vòng sanh tử?”
Suy
tưởng đến đó, lòng lo buồn, tâm nghi mãi không thôi. Người ngoài thấy cô hình
dung gầy kém, cử chỉ thất thường, cho là do sự xót thương thái quá, mà không rõ
được bề trong. Dù trong lúc tuổi thơ, nữ sĩ đã biết nghĩ xa đến sự sống chết,
một vấn đề rất lớn lao, trọng yếu của đời người.
Năm
mười ba tuổi, cô học tại nhà, vừa được tám tháng, đã có thể lưu lãm các văn tự
gần xa. Xem bộ Hương Sơn Ký thấy sự tích ứng hóa của đức
Quán Thế Âm Bồ tát, cô liền có ý nghĩ muốn bắt trước theo. Một
hôm, vào tiết đầu xuân, nhân có cuộc vui họp bạn, nữ sĩ sắp sửa đi dự, vừa bước
ra khỏi cửa, bỗng chợt nghĩ:
“Có
vui tất có buồn, có hợp tất có ly, có đi tất có về, thôi thà chẳng đi là hơn!
Lúc
ông Thôi Sơn làm hiệu trưởng trường Dương Trung, nữ sĩ theo cha lên lầu Nhạc
Dương, thấy tượng Lữ Thuần Dương, lại nghe sự tích thành đạo của Ngài, liền
sanh tư tưởng xuất thế. Nhưng bị duyên này sự kia, dây dưa mãi mà chưa thật
hành được ý nguyện.
Năm
mười bảy tuổi, cô về làm dâu nhà họ Đàm, vừa thành hôn, liền bảo Đàm Quân rằng:
“Đến
ba mươi tuổi, chắc tôi phải xa nhà, lìa bỏ tất cả, sống một cuộc đời tịnh hạnh.
Lúc ấy chàng nên cố gắng tự nhiếp”.
Nghe
nói Đàm Quân cho là lời vẩn vơ, bất tường, cười mà bỏ qua. Chàng lại khuyên nữ
sĩ nên tùng học để trao dồi thêm kiến thức tại trường Dân Lập ở Thượng Hải.
Trong trường ngoài giờ học, các bạn ưa vận động chơi đùa, riêng cô lại nhàn
tịnh, ít nói, thích ngồi một mình nơi chỗ vắng với trạng thái trầm tư. Nữ sĩ
học hành ngày càng tiến bộ, xuất sắc, thầy bạn đều mến trọng, nhưng vừa được
một học kỳ, lại phải thôi học theo Đàm Quân, lúc lên Bắc Quản, rồi đến Yên
Kinh.
Mặc dù
trên đường hoạn quan, cô phải theo chồng, luôn luôn dời chỗ không nhứt định,
song tấm lòng mộ đạo vẫn tùy duyên không biến đổi. Thường thường, trong các
cuộc vui, tuy phải gắng gượng theo người, song nghĩ đến sự vui chẳng bền lâu,
phút chốc rồi tan rã, nơi lòng vẫn hằng xem quan niệm buồn lo. Trong các bạn
đồng niên, cô đã từng nghe họ kể cho biết nỗi niềm riêng: Kẻ thì âu sầu về gia
tự, người thất vọng về danh lợi, tình duyên, kẻ khác lại đau về cảnh sanh ly tử
biệt. Thấy cuộc đời vui ít khổ nhiều, mà các bạn còn mải mê hi cầu, đeo đuổi,
như con nai khát nước chạy theo ánh nắng chập chờn, nữ sĩ bỗng xót thương suy
ngẫm:
“Đức
Thế Tôn đã nói: “ba cõi đều vô thường, các pháp hữu vi không có chi là vui”,
quả là lời chắc chắn không lầm. Thật khó hái được cành hoa hạnh phúc trong vườn
đời huyễn mộng!” Lúc ấy trong thâm tâm cô đã có ý nghĩ muốn thoát ly hai họ Hồ,
Đàm.
Thường thường trong lúc tiếp chuyện cùng người,
nữ sĩ ưa đàm luận lý diệu huyền, quyết tìm đến chỗ cội nguồn, cầu sự giải quyết
cao siêu, cứu cánh. Cô lập thệ làm sao đến ba mươi tuổi cũng phải lìa môn
duyên, tìm một chỗ an thân tu hành để cho trọn đời sống. Lúc ấy, Đàm Quân có
quen thân với ông Lý Ẩn Trần. Lý là một vị quan cựu trào nhà Thanh, từ khi Dân
quốc thành lập đến nay, từ chức về quê ở ẩn.
Ông
này rất mến đạo Phật, nhận sự hoằng pháp lợi sanh làm bổn phận. Một hôm, nhân
có việc đến kinh, Lý tiên sanh ngụ nơi nhà Đàm Quân, nữ sĩ có dịp được tương
kiến. Tiên sanh giảng luận về đạo Phật, nói rộng sự thù thắng ở Cực Lạc cho
nghe, và khuyên cô nên lưu ý tìm sự giải thoát nơi pháp môn Tịnh độ. Nhân tiện,
cô nhờ ông tìm giùm cho mình một cảnh chùa am để tịnh tu phạm hạnh. Lý tiên
sanh nhận lời.
Vì chí
xuất trần quá tha thiết, cách vài hôm sau, nữ sĩ sốt lòng đi thẳng đến am Mã
cách Ly thăm Lý tiên sanh, tỏ bày chủ ý của mình. Tiên sanh vui vẻ tán thành
tặng cho một xâu chuỗi, và các sách Phật như: Thiện nữ nhơn truyện, Tịnh nghiệp
soát yếu v.v... rồi giới thiệu đến Hạ Trạch để nghe Trần nguyên Bạch lão cư sĩ
diễn giảng Trần lão là một vị uyên thâm Phật lý, phát nguyện muốn cho Phật pháp
phổ cập toàn cầu, dùng nữ giới đi tiên phong như cách tông đồ Thiên Chúa bố
giáo ở Âu Châu thuở xưa. Bấy giờ bên nữ giới người học Phật lần đông, mà khổ vì
không có chỗ chuyên tu. Lão cư sĩ là người đầu tiên đứng lên đề xướng về việc
ấy.
Khi
thăm Lý tiên sanh, được nghe lời khuyến khích, nữ sĩ từ giã ra về, quyết lòng
nhập đạo, đi ngang qua Thơ Trạch nhờ bạn thân là Mã nữ sĩ đưa qua Hạ Trạch nghe
giảng một phen. Khóa giảng xong, cô liền quy tâm Phật pháp, tôn Trần lão làm
bậc thầy. Bạn đồng đạo bảy người đều mặc áo vải, ăn chay trường bỏ cả sự trang
sức xa hoa, sớm tối tụng kinh niệm Phật không biết mỏi. Nữ sĩ dù dõng mãnh tinh
tấn, song tu hành ở nhà nhiều nỗi trở ngại, đôi ba phen nhờ Trần lão tìm giùm
chỗ nơi thuận tiện cho sự thanh tu, nhưng mãi mà chưa được.
Một
thời gian lâu sau, có tin ở Đông Trực Môn, am Cực Lạc. Bảo Nhất pháp sư sửa
sang chùa hư, mở Đạo tràng làm chỗ cho cả tứ chúng tu tập. Về phía Tây am có
vài nóc dân phòng, pháp sư sửa lại làm quan phòng, ngăn ra từng gian, vừa vặn
trang nghiêm, mỗi gian đều có cửa nẻo riêng biệt, như cách chế thôn lạc, rất
tiện cho nữ chúng ở tu. Nữ sĩ nghe được rất mừng, nhờ Trần lão đưa đến quy y
với Bảo Nhất pháp sư. Sau đôi ba phen bày tỏ lạy cầu. Pháp sư xót thương hứa
nhận và chỉ định gian nhà phía Tây ở Tây viện làm chỗ tịnh tu cho cô. Được lời
nữ sĩ bồi hồi cảm động, tủi tủi mừng mừng, bể trần lao chìm nổi nửa đời, đến
đây mới được chỗ an thân học đạo.
Từ khi
ở Đạo tràng quy y lễ tạ Bảo Nhất pháp sư rồi trở về nhà, nữ sĩ ngày ngày đem
việc ly gia khẩn khoản bàn với Đàm Quân. Chàng buồn bã không quyết định được,
mời hàng thân quyến và bạn hữu đến cùng nhau thương nghị việc ấy. Mọi người
không hiểu chí nguyện của cô, đồng ngăn cản. Nữ sĩ bèn cắt một miếng thịt nơi
cánh tay để tỏ bày chí kiên quyết của mình. Đàm Quân khóc lóc cầm lại không
được, xin mãn ba năm rồi trở về nhà cũng không được. Ngày 23 tháng 8 năm Tân
Dậu, nữ sĩ đến am Cực Lạc.
Qua
ngày 26 thọ giới Bồ tát, phát nguyện ba năm không ra khỏi ngõ am, chuyên tu
tịnh nghiệp, an lòng với đạo cho mãn kiếp sanh. Cô dù xa nhà ở ẩn, nhưng hàng
thân hữu đến thăm càng đông, lòng không kham nổi sự phiền phức, liền đóng cửa
phòng bảo người rằng: “Tôi lìa nhà thế như đưa đi chôn, vào tịnh thất như để
xuống huyệt, đóng cửa phòng như lấp đất, việc ân nghĩa đối xử với bên ngoài từ
nay kể như đã đoạn tuyệt!” Xem đây có thể thấy tâm chí của cô kiên quyết như thế nào! Lúc bấy giờ nữ sĩ tuổi vừa ba mươi,
đúng với ý nguyện, hạn kỳ ngày trước.
Đức
Phật nói: “Phàm việc chi đều có nhân duyên, có nguyện tất có ngày đền đáp”, Như
Vô Sanh nữ sĩ: nửa đời chìm nổi, vườn trần mưa gió cánh xuân; nhân tốt sớm
gieo, duyên tịnh đưa về cõi Phật. Ấy đâu phải là sự ngẫu nhiên ư?
Trích dịch: “Vô Sanh nghiệp ký”
Tỳ kheo: Thiền Tâm, hiệu Liên Du
Tự Tri
Lục
(Lời
tự thuật của Vô Sanh nữ sĩ)
Mấy Lời Phi Lộ
Hoa xuân, cành liễu oanh kêu hót,
Mình biết mình hơn kẻ biết mình!
Mùa
thu tháng chín năm Tân Dậu, tôi đóng cửa thất nơi Tây viện am Cực Lạc, ở kinh
sư, vâng lời Thầy dạy, cấm ngữ, tuyệt sự đời, chẳng chơi thi từ văn mặc.
Khi
mới dụng công, nhiều cảnh giới bỗng nhiên phát hiện. Tôi thưa hỏi Thầy, người
liền nói là ma, là huyễn vọng, dặn đừng tham chấp, chớ sợ hãi. Trải qua năm
tháng sau, các cảnh tướng bất tịnh lại phát hiện. Đem trình hỏi Thầy, người
bảo: “Đó là do đời trước con đã tu pháp bất tịnh quán, túc căn phát hiện, không
có chi lạ”!
Từ đó
về sau, cảnh tướng mỗi ngày mỗi khác. Thưa thuật lại, thầy bình luận cho chỗ
thấy của tôi phần nhiều hợp với kinh Phật, song vẫn dặn kĩ chớ nên chấp trước,
chớ cho là thắng giải. Vì thế, tôi không ghi chép, cảnh tướng trải qua liền
quên.
Gần
đây, sau khi ra thất, các bạn hữu ưa gạn hỏi mãi tình huống trong khi yểm quan.
Chuyện vẫn nhiều, cảnh giới lại phức tạp khó nắm cương lãnh, bất đắc dĩ tôi
phải gắng nhớ lại việc còn ghi nhớ, chép ước lược ra để nhờ thầy bạn chỉ bảo.
Tôi cho rằng: nếu chuyên dụng công, tự có cảnh giới, không cần hỏi gặt hái, chỉ
chăm lo cày bừa. Nếu chẳng cày bừa mà muốn gặt hái, tất không có lẽ đó. Trong
vài tháng trở lại đây, chỗ dụng công của tôi càng thêm đắc lực. Xin chân thành
ghi lại trong tập này, phần đại khái cùng một vài chi tiết nhỏ có lợi cho bạn
đồng tu, để cùng nhau tham khảo.
Sau
khi viết xong, tôi đặt nhan đề là “Tự Tri Lục”. Đây chính là lấy ý nghĩa: sự ấm
lạnh tự mình riêng biết vậy.
Tháng quý đông, năm Giáp Tý
Ngày Phật thành đạo
Ưu bà di: Hiển Nhẫn
Pháp
Thức Tu Tập
Khi
mới yểm quan, tôi đã chủ định điều cốt yếu thứ nhất là phải buông cả muôn
duyên, xem thân này như đã chết, quan phòng như nấm mồ của mình. Ngày đêm sáu
thời, tôi không để tâm đến việc chi khác, chỉ một mặt tưởng nhớ Phật A Di Đà cùng
thế giới Cực Lạc là chỗ nương về duy nhứt, nhận chắc cõi này đầy dẫy nỗi khổ,
miền kia thuần sự an vui.
Vì
thế, khi đi đứng nằm ngồi, tôi giữ câu niệm Phật khăng khăng không rời. Niệm
mãi tới lúc hình nhọc sức mỏi, thần khí hôn trầm, không còn có thể chi trì, lại
đứng dậy lễ Phật để duy trì chánh niệm. Khi lễ Phật, ít thì 21 hoặc 48 lạy,
nhiều hoặc hai ba trăm lạy không nhứt định, lấy sự hôn trầm tan mất, tâm được
thanh tịnh làm chừng. Có khi lễ đến đầu xay xẩm, mắt lờ mờ, thân hình ngả sụm,
vẫn còn lạy mãi không thôi.
Đây là
phương châm tối thượng để đối trị bệnh hôn trầm, tôi thường thể dùng và thường
được hiệu nghiệm. Nếu khi tạp niệm sôi nổi, tinh thần tán loạn, không pháp chi
dứt được, tôi liền tụng danh hiệu Di Đà, Quán Âm, Thế
Chí, Thanh Tịnh hải chúng xoay vần nối nhau không ngớt để ngăn trừ. Hoặc có khi
lại tả vài trăm câu Phật hiệu vào sổ tay, rồi cứ xem kĩ theo mặt chữ niệm từ
trên xuống dưới, cách này cũng rất là đắc lực. Hai phương pháp trên có thể đối
trị bịnh tán loạn, xin đưa ra đây để cho bạn đồng tịnh thử dùng.
Phương
pháp niệm Phật rất nhiều, tôi chọn lấy hai cách: 1. Niệm to tiếng, khi niệm
quán mỗi tiếng mỗi câu đi vào trong tâm. Bởi, niệm to tiếng có thể rửa sạch
trần cấu của năm ấm, quán tiếng vào tâm thì lòng dễ chuyên mà tạp tưởng ít. 2.
Ngồi im niệm thầm, khi niệm miệng dù không ra tiếng, nhưng trong tâm mỗi chữ
mỗi câu vẫn rành rẽ rõ ràng.
Hai
phương pháp nầy tôi thay đổi nhau mà dùng, tùy theo trong người khi khỏe lúc
nhọc. Niệm mãi như thế, lâu ngày sức huân tập thuần thục, không niệm mà tự
niệm. Lần lần đến khi cùng người chuyện vãn mà trong tâm câu niệm Phật vẫn nối
tiếp nhau không hở dứt. Khi ấy động cùng tịnh đã hiệp một. Đây gọi là cảnh giới
tương ưng.
Thời
gian niệm Phật của tôi dài ngắn không định, có khi một giờ, hai giờ, có khi
năm, sáu giờ. Trước tiên là niệm to tiếng, niệm mãi đến khi mệt thì ngồi yên
nhiếp tâm mà niệm thầm để khôi phục sức khỏe; ngồi lâu đã mỏi lại đứng lên đi
kinh hành hoặc lễ Phật cho thân thể được hoạt động. Ba điều trên đây, tôi cứ
tùy thời xoay vần thay đổi, nên có thể duy trì sức niệm được lâu. Muốn cho vọng
niệm bớt ít, tôi tự khắc lệ, dùng chuỗi ký số lấy một ngàn câu làm đơn vị.
Trong
khoảng ngàn câu đó, nếu có một câu thất niệm, không chắc chắn, rõ ràng, thì bỏ
cả, trở lại từ một. Lại khi niệm Phật, tôi thường nhắm mắt, nếu nửa chừng ngẫu
nhiên mở mắt ra, cũng bỏ cả, đếm trở lại từ một. Lúc lễ bái, phát nguyện, tôi
đem hết lòng thành kính khẩn đảo, như tự thân ở trước Phật, sớm tối đều lấy 108
lạy định làm thường khóa.
Mỗi
khi rời phòng thờ Phật, tôi lễ Phật xin phép, tự hẹn thời gian bao lâu sẽ trở
vào, khi vào cũng lễ Phật thưa trình, như thờ đức Thầy nghiêm, không dám sai
trễ. Đèn hương trên bàn Phật, tôi giữ nối luôn không cho tắt dứt, nếu không thể
được vẹn toàn thì phải có một trong hai món. Vài điều trên đây là những phương
pháp dùng hình thức để duy trì chánh niệm.
Trước
kia tôi vẫn hay buông trôi theo thói quen, nhưng sau khi nhập thất lại lấy sự
sửa đổi tập quán làm chủ yếu. Lúc gặp những cảnh vật đáng ưa, sự tình đáng mến,
liền dứt bỏ; với những cảnh vật đáng ghét, sự tình khó chịu, thì gắng ẩn nhẫn
cho qua. Khi đau ốm, tôi nghĩ rằng: đây là lúc sắp vãng sanh, là điểm quan yếu
của một đời tu, ta nên tinh tấn, nhẫn các sự khổ, chớ để khi lâm chung mất
chánh niệm. Tôi lại tự lập chí kiên quyết: dù chi bịnh khổ suy mòn, mạng sống
đến giờ hấp hối, nếu còn một chút hơi thở, chút tri giác, thì lấy đó mà tưởng
niệm Phật. Như thế báo thân đã mãn, tất được vãng sanh, chẳng là đều vui ư?
Nghĩ đến đó, lòng tự an nhiên, không kinh sợ.
Tôi
vẫn ít ngủ, phen nhập quan này, sự ngủ nghỉ lại càng ít hơn. Dù có ngủ tâm cũng
không hôn mê, thường tợ như chiêm bao, mà chẳng phải chiêm bao, vẫn thấy mình
có thể lễ Phật niệm Phật như lúc bình thường không khác. Nhân đó tôi lại càng
cố gắng lặng lòng quán sát, quét trừ ma ngủ để nối luôn niệm thanh tịnh, mong
làm sao cho niệm lực ngày đêm như một. Điều này rất là khẩn yếu...
Trải
Qua Cảnh Giới
Thời gian yểm quan tu tập chưa bao lâu, tôi cảm
biết tứ thể nhẹ nhàng, đầu não mát mẻ, trong miệng nước tân dịch tuông tuông
như suối trào, vị ngọt ngon.
Vào
khoảng hai mươi mốt ngày sau, một đêm, trong thất khói đàn hương quá ngạt, tôi
đứng lên đi lại mở cửa sổ để thay đổi không khí. Cửa vừa mở, mắt nhìn về phương
Tây, thoạt thấy một đạo hào quang hình như cái móng theo chiều gãy chiếu sang
phương Đông, ánh sắc vàng hồng, làm cho cả am sáng rỡ như ban ngày.
Tôi
nhắm mắt chắp tay niệm Phật vài câu, mở mắt ra xem vẫn còn thấy hòa quang vàng
nháng lên mấy lần mới tắt mất. Trong lòng tự biết đó là điềm tốt, càng thêm
tinh tấn tu hành. Nhiều lần đang khi gõ mõ niệm Phật, mỗi dùi mõ đánh xuống
phát ra một làn ánh sáng. Tôi lại thấy trong ngực có bình lưu ly, khi niệm
Phật, mỗi chữ mỗi câu đều chun vào chứa đựng cả trong bình. Trên đây là những
cảnh giới trước sau trong khoảng tháng mười một tháng chạp.
Đêm
hai mươi bảy tháng chạp, lúc trời gần sáng, tôi bỗng cảm thấy mình đang đi trên
tuyết, mỏi mệt muốn trở lại, thoạt nghe tiếng người bảo: “Đã đến Tây phương,
phía trước có người đón tiếp con”. Tiếng nói vừa dứt, trước mắt bỗng mở ra một
vùng ánh sáng mênh mang, các tướng tốt rực rỡ của cõi Cực Lạc hiện bày trong
ấy, tràng phan bảo cái rất mực trang nghiêm, có vị Bồ tát an tọa trên tòa sen
báu.
Tôi tự
biết đó là đức Quán Thế Âm, song miệng vẫn niệm Nam mô A Di Đà Phật, rồi cúi
xuống lạy. Bồ tát bước đến đỡ dậy, khen ngợi: “Công hạnh của con cũng khá tốt,
chỉ hiềm còn thiếu chữ Bi”! Tôi liền gieo mình đảnh lễ: Nam mô đại từ đại bi A
Di Đà Phật. Vừa ngước đầu dạy, thoáng thấy Bồ tát bay lên có dạng như hơi khói
nước sôi trào. Trong tâm thầm nghĩ “Đó chắc là Ngài làm phép”. Lúc ấy liền thức
tỉnh.
Bấy
giờ, tôi cảm thấy có vô số hạt châu sáng lăn vòng khắp trong thân, các hạt châu
đều kêu thành tiếng niệm Phật, mà lạ thay, tiếng đó lại lanh lót ở giữa chừng
không. Khi ấy nơi tâm càng mát mẻ, nhẹ nhàng, cảnh hiện được ba giờ mới dứt. Từ
đây cho đến hơn mười ngày sau, mỗi khi lễ phật, niệm phật, lúc vừa mới chắp
tay, trong thân các hạt châu lại bắt đầu hành động không ngớt, kế lại hiệp
thành một hạt châu lớn phía sau có ánh sáng vàng. Lăn vòng khắp châu thân.
Trong
một ngày có đến đôi ba phen như vậy. Lại có khi tôi vừa niêm Phật một tiếng,
bỗng thấy châu sáng lên một hạt, niệm đến số 108 câu, các hạt châu liên kết
nhau hòa thành xâu chuỗi, tự máng vào cổ mình. Cảnh trạng này mấy ngày mới hết.
Ngày
Nguyên Đán năm nhâm Tuất, sau giờ ngọ tôi bỗng thấy vô số nam nữ qua lại, cười
nói ồn ào quấy rầy mãi chẳng thôi. Bọn ấy dạy bảo tôi niệm chú mới, tôi vừa đọc
qua một biến, liền giác ngộ biết là ma, vội bước xuống tòa đến trước bàn gõ mõ
niệm Phật lớn tiếng.
Tiếng
niệm phật nếu dừng, tiếng kia lại nổi lên, hoặc kêu chị chị em em, hoặc khua
như tiếng đồ đạc bễ vỡ hoặc có nhiều người đem đồ ăn ngon ngoài đời lại nài nỉ
ép bảo ăn. Khuyên chớ tu hành đã luống công mà nhọc nhằn khổ não, tôi lại thấy
trẻ nhỏ hai bên nói : “Ta là Phật Di Đà đây” kế lại tự cam lấy bốc cháy nóng từ
trên đầu, rồi lần lần bay dang ra xa. Đôi khi lửa từ trong miệng phựt ra có
ngọn.
Bây
giờ trong thân như có vật chi muốn vọt ra ngoài mà không được. Cảnh trạng như
thế biến hiện rất nhiều, đáng kinh, đáng sợ ! Lúc ấy tâm tôi dù hơi khiếp hãi,
song thần trí vẫn sáng suốt không bị động , quyết liều chết giữ chắc một câu
niệm phật để chống trả lại. Như thế luôn cả sáu ngày đêm, mắt không nhắm, không
nằm, không ăn, không một khắc nào rời lễ niệm khẩn cầu, như con thơ kêu cứu
cùng cha mẹ.
Đến
cuối ngày thứ sáu, khí lực suy kém, trong người quá mỏi mệt, mà vẫn còn gắng
sức chỉ trì lễ Phật vài trăm lạy để cầu xin gia hộ. Trong lúc thân càng khốn
như thế, cảnh ma lần lần tiêu dứt. Sau khi ấy, tôi lên giường nằm thử, may mắn
sức khỏe lại khôi phục như thường. Qua ngày kế, đang lúc tịnh tọa, tôi cảm thấy
từ nơi ngực hơi nước tuông tuông phun ra như sóng cuộn,
mãi mãi chẳng thôi, khí lực kém lần, không thể tự chi trì được. Tôi liền phát
tâm chí thành khẩn cầu, niệm phật, thầm nghĩ: “giờ phút vãng sanh, âu là hôm
nay.
Thôi,
không còn nên đoái tưởng một mảy may gì nữa cả” ! Như giây phút, trước cảnh
trạng suy kiệt như săp chết đến nơi ấy, hơi nước bổng nhiên xoay lại, hòa thành
cái chụp lưu ly trong suốt sáng rỡ, che trùm cả thân mình. Tôi liền khen ngợi
Phật Pháp không thể nghĩ bàn! Tiếc thay! Người đời không chịu tu hành, hoặc tu
mà đạo không hơn ma, không thể duy trì chánh niệm, để tinh thần hỗn loạn, nến
đỗi giữa đường phải bỏ dở. Thật đáng thương! Đáng xót !
Vào hạ
tuần tháng giêng, một hôm dường như chiêm bao mà không phải chiêm bao, mắt còn
chưa nhắm, tôi cảm thấy như mình sắp chết, trên đầu có ít người kêu réo. Lúc
ấy, thần trí tôi không hề lay động, vẫn chuyên tâm niêm Phật, cho rằng: đây
chính là giờ vãng sanh. Lại tự nghĩ: “Sao phương Tây còn chưa có nười đến tiếp
dẫn” ?
Vừa
nghĩ như thế, bỗng cảm thấy mình từ trong đường tối đi ra, vụt bay thẳng lên hư
không, khắp châu thân toàn là cánh sen vàng, tùy tâm chớp động, vui thích vô ngần!
Lại tưởng: “ sao không thấy Phật”? Liền khi ấy trước mắt hiện ra đức Phật lưu
ly ngòi trên tòa sen lớn, có bồ tát hầu hai bên, Phật bảo: “ta cho con một hoa
sen”. Tôi liền thức dậy.
Cách
vài hôm sau, trong lúc tĩnh tọa, tôi thấy mình bay lên hư không hóa thành hào
quang vàng, chính hào quang là thân mà không có thân tướng, nhẹ tang sáng suốt,
vui thích vô cùng! Có một ngày, bỗng nhiên thân mình như kết lưới, kết rồi lại
dứt, cảnh tượng ấy kéo dài hơn tháng mới thôi. Không bao lâu, tôi cảm thấy khắp
mình sáng suốt, soi thấy ngũ tạng, cả thân tái sanh như thịt thúi, mắt thành lổ
to như hai ngọn đèn.
Khi
niệm một tiếng Phật, liền thấy thịt thúi lột ra một lớp như sóng vỗ trôi cát.
Lần lần lột sạch hết cả. lại thấy thân như chụp lưu ly, trong ấy trùng bu đầy,
đầu trùng đều ngước cả lên rất đáng sợ, vài ngày mới hết. Kế lại thấy khắp thân
từ da thứa đến thịt xương lột ra từng lớp như lột bỏ tơ mục, đến khi hết, lòi
cả tạng phủ ra bừa bãi trên giường.
Các
tướng như thế biến hiện không thể nghĩ bàn! Trải qua mấy cảnh giới trước, tôi
tự thấy khắp mình ánh sáng chói suốt, phát hiện nhiều thứ châu báu trang
nghiêm. Các tướng ấy một ngày biến đổi vài lần, hoặc hóa làm lộng phướn, hoặc
hóa thành đền đài, hoặc từ các lổ chân lông đồng thời chiếu ra hào quang vàng
như sợi chỉ.
Có
hôm, những sợi ấy hợp thành một bó chỉ vàng phân nửa hướng lên trên , phân nửa
rũ xuống dưới, đều hóa thành lưới báu, mỗi mắt lưới một hạt châu, chân lưới bao
chụp cả thân mình, các hạt châu va chạm nhau thành tiếng thanh thao êm dịu! Có
lúc từ ba mặt lưới mưa nhỏ tuôn phơi phới, mỗi giọt nước hóa thành hình tròn
liên tiếp như thế vài ngày đêm không dứt, rốt sau lại biếng thành ao vàng.
Trong ao ấy có các thứ báu hoạt động sanh vật, trên có chữ Vạn màu vàng che
phủ.
Một
hôm, tôi bổng thấy đỉnh đầu bễ vỡ tuôn ra nhiềuhoa báu phun vọt lên trên, ánh
sáng chiếu xuốt, soi thấy chư phật bồ tát đầy khắp hư không. Bấy giờ sáu căn
lẫn lộn, không còn phân biệt được, không trong không ngoài. Mặc dù cảnh giới có
biến đổi lạ lùng, song tôi vẫn an nhiên, không vui mừng, kinh sợ.
Vài
hôm sau, tôi lại thấy từ trong ngực có hoa sen báu vọt ra, cánh sen sắc vàng
hồng, khép nở liền liền. Trong hoa hiện ra đức Phật A Di Đà sắc vàng, Phật bay
lên hư không, mình cúi lạy theo. Lúc ấy lại tự hiểu đức Phật mà mình đang lễ
bái, chính là mình, không hai không khác. Một ngày, tôi chợt cảm thấy tâm khai,
phóng hào quang sáng trắng như điện chớp, hiện ra cõi lưu ly báu. Trong đó có
rất đông bồ tát và la hán an tọa, mình cũng đồng ngồi, quang cảnh như nhi đồng
theo phụ huynh dạo chơi.
Vào hạ
tuần tháng ba, một hôm tôi thấy chụp lưu ly phủ mình tự nhiên vỡ nát, miểng
vụng văng ngang thì hóa thành cát sắc bạc, miểng văng lên biếng làm lồng vàng
từ sau lưng văng ra phía trước rồi xoay lại. lúc ấy trong thân khốn khổ lạ
thường, như rắng bò ra, như tằm nằm ngủ, đang khi khó chịu, tôi chợt cảm biết
thân tâm khoan khoái, muôn niệm đều tiêu, nghe rõ các tiếng buồn khổ từ dưới
đưa lên rất là thảm thiết! Kế lại nghe tiếng niệm Phật du dương trong trẻo từ
xa lại gần, thanh tịnh an vui không thể nói dụ được! Nhìn xuống tôi thấy đất
biến thành lưu ly sáng suốt mà chính đó là thân mình, bên tả hóa hiện cây Bồ đề
to lớn, tàng rộng che trùm rất xa.
Từ
trên đảnh đầu mình lại phóng ra ánh sáng sắc vàng, giữa ánh sáng hóa hiện cây
cột thủy ngân, đầu cột có tiếng niệm Phật như máy phun nước nối liền không dứt.
Ngày ấy tôi tịnh tọa ước chừng sáu giờ, sau khi xuất định, còn nghe tiếng người
niệm Phật như kêu mình cứu vớt, hơn mười ngày mới thôi.
Từ đó
về sau, trên đầu tôi đều cùng cánh sen bao vây, toàn thân cũng là cánh sen kết
thành, mình đi dưới ánh sáng nắng màu sáng chói, tốt đẹp vô cùng.
Lại
mỗi khi tôi tịnh tọa, bỗng thấy hào quang phóng ra, tường vách cõi đất đều chấn
động, vật chi chạm đến hào quang đều liền vỡ nát hóa thành hoa vàng xoay lộn
không ngớt. Trên hư không hoa báu bay liệng lên xuống đều đều chậm chậm như
những cánh chim trời.
Trên
đây là những cảnh giới trải qua từ rằm tháng chín yểm quan đến rằm tháng tư
xuất quan. Từ đây đến rằm tháng mười là ngày nhập quan, trong vòng sáu tháng,
cảnh giới không đổi mấy mà cũng không mất. Hoặc thấy toàn thân hiện thành ánh
quang minh, dường như tơ phơi phới xoay vần không ngừng. Hoặc có lúc tự mình
ngồi trên hoa sen bay lên hư không đi đồng hàng với các bậc Bồ tát, thường được
nghe lời khen ngợi.
Đêm
mười tám, sau mấy ngày nhập quan, tôi hay tin tiên phụ mất, liền bày linh vị
trên bàn Phật, quì tụng kinh A Di Đà. Trong lòng xúc cảm, vừa niệm bài hương
tán, nước mắt bỗng rơi nhỏ giọt như chất dầu. Sau thời kinh tôi đang tịnh tọa,
chợt thấy bóng đen bay đến trước linh vị, lại nghe trên hư không có tiếng bảo:
“Công đức đã viên mãn, cha của con được vãng sanh về biên cảnh Tây phương. Chờ
khi nào đạo nghiệp con thành tựu, sẽ đồng được thấy Phật”. Liền khi ấy, bóng
đen tan đi như mây khói. Tôi lại tịnh tọa nhập thâm định, thấy thân phụ đang
ngồi trong vườn hoa rộng lớn, tốt đẹp rực rỡ, không phải cảnh nhơn gian. Đây
phải chăng là miền biên địa ở Tây phương?
Đêm
mười chín, trong lúc thầy cùng các bạn lập đàn niệm Phật để siêu độ cho tiên
phụ, tôi thấy tiếng niệm Phật trong đàn kết thành một phiến, trong rõ chỉnh tề,
du hành trong hào quang của tôi đến sáng mới thôi. Ngày ấy cảnh giới của tôi
cũng đặc biệt thù thắng. Trên hiện hào quang vàng, dưới thành ao sen rộng lớn
có vô số hóa Phật, tâm tôi khoan khoái cũng niệm Phật không ngớt. Thảng như
thường có cảnh giới này lo gì tịnh nghiệp của mọi người không thành?
Vào
buổi chiều tối ngày mùng 8 của một tháng mùa đông, lúc tôi niệm Phật, hào quang
hóa thành lông cứng thẳng, sức rất mạnh khó điêu huấn. Nhưng khi niệm đến sau
một ngàn câu, bỗng có tiếng nổ như mở nút miệng bình, hào quang mới lần lần dịu
mềm xoay vào trong miệng. Bấy giờ thân thể tôi đồng như hơi bọt, mát mẻ vô cùng
bên tai vang ra tiếng êm dịu.
Mấy
ngày trở lại đây, cảnh giới phát động khốn khổ khác thường, bây giờ mới được
yên lặng. Đây chính là vì tôi không quản chi cả, chỉ dùng một chữ Nhẫn để chống
lại. “Nhẫn” này không phải nhẫn
chịu sự thống khổ, mà chính thật pháp không nhẫn, là quên cả thân tâm ngoại cảnh, xem tất cả đều không. Tôi dùng cách này
để hàng phục tâm mình, cảm thấy rất được tương ưng.
Ngày
mùng mười, trước giờ ngọ, tôi niệm Phật đến lúc khẩn cấp, bỗng nhiên tâm khai
hiện ra một vị Phật, sánh với đức Phật hồi tháng tư thì vàng sáng và rõ hơn,
Phật hiện đối trước tôi, như đứng ánh sáng trăng bàng bạc phía trên lại hiện ra
các thứ châu ngọc rực rỡ chớp nháng lấp lánh. Lúc ấy trong tâm tôi có trạng
thái vừa đau, vừa sáng vừa yên tịnh, hơn một giờ mới hết. Liền đó, tôi lại thấy
các hình tướng trang nghiêm ở cõi Cực Lạc xoay dạo không ngừng. Ấy cũng là công
đức sẵn có trong tâm, chẳng phải cảnh ngoài.
Chiều
rằm, đang lúc tĩnh tọa, tôi thấy trong hào quang sắc chàm hiện ra một chữ
“Hồng” màu đỏ, hai bên nổi lặn như đèn điện tắt cháy, tự biết đó là bốn chữ A
Di Đà Phật hiệp thành, tôi quán soi hồi lâu bỗng hiểu: bổn lai của ta chính là
cái này. Nhân tưởng: “Bình nhựt vọng niệm từ đâu phát ra?” Lúc đó liền thấy một
niệm nghĩ ấy dờn dợt từ dưới chữ mà ra, đó là chỗ vọng niệm phát xuất. Châu vi
của chữ Phạn ấy lại vang ra tiếng trong rõ dị thường!
Đêm
mười bảy, thân mình hốt nhiên hóa thành sợi chỉ trắng rất sáng suốt, xoay vần
như gò núi. Nhân đó tự biết: Lông trắng giữa chân mày chia ra thì thành 32
tướng cho đến tất cả cảnh giới đều do nơi lông trắng này mà thành. Lúc tôi dụng
công được tương ưng thì tâm cùng tiếng hiệp thành một khối lảnh lót như tiếng
đồng tử hoặc có lúc ứng tiếng hòa với tiếng tôi mà niệm.
Đêm
hai mươi, sau khi tôi tụng xong kinh Địa Tạng, tiếp tục qua kinh Di Đà, đến
quyển thứ tư, câu A Dật Đa Bồ tát, bỗng nhiên thân thể rổng rang, tất cả đều
không. Tôi lần ngồi xuống đất cũng không thấy hay động, da mặt đầu mình không
biết đau ngứa, xúc giác tiêu tan, cảnh giới trang nghiêm lúc bình thường đều
mất cả. Như thế giây lâu mới trả lại nguyên trạng. Khi ấy, tâm càng mát mẻ, hào
quang càng rộng rãi dịu dàng vô cùng!
Ngày
hai mươi tám, tôi tự cảm thấy thân thể hóa thành vầng mây, mây là thân không
tướng. Áng mây thân đó họp lại thành gò núi, tan ra thành bạch quang, sự trong
ngần của băng tuyết không thể sánh kịp. Khi ấy bốn phía, hai bên cùng sau
trước, đều không còn phân biệt. Tôi chỉ tự cảm biết trạng thái lúc bấy giờ là
một thể hồn nhiên sáng suốt mà thôi...
Lời Bình Luận
Trong
kinh sách Phật, có nhiều chỗ khuyên răn người tu, lúc được cảnh giới tốt hay có
sở đắc chi, chớ nên phô bày. Nếu phô bày thì dễ sanh ma chướng, tà niệm, hoặc
có khi được rồi lại mất. Trừ ra hai phương diện:
1) Bậc Phật, Bồ tát hiện
thân, vọng tâm đã dứt, vì muốn thủ tín cùng đời, hay vì dắt dìu chỉ dẫn người
sau, nên mới nói ra.
2) Lòng mình có chỗ nghi, muốn thuật
riêng lại với bậc thiện tri thức để nhờ quyết đoán sự chánh tà, tránh các điều
hại, không phải có ý khoe khoang tự đắc.
Vô
Sanh nữ sĩ là người thế nào, tôi không thể lường được, nên không giám phẩm bình
về sự phô bày của tôi. Nhưng xin khuyên các hành giả phải cẩn thận, đừng có
được ít mà đòi nhiều, và nếu không phải vì một trong hai trường hợp trên, xin
chớ phô ra. Như thế mới khỏi mang tội đại vọng ngữ, và tránh được các điều hại.
Tập
này, có một vị cư sĩ muốn in để truyền bá rộng ra, viết thơ hỏi ý kiến Ngài Ấn
Quang. Đại sư không cho và bảo: “Nếu tu hành đắc lực, tự nhiên có cảnh giới.
Song cảnh giới ấy cũng tùy công đức nơi tâm mà hiện, chớ không có chi lạ! Người
tu, nếu đúng theo pháp mà niệm Phật, thì thấy tướng hảo càng tốt, không thấy
cũng vô hại, bởi nhân chắc thật tất quả không hư dối.
Như tu
niệm không đúng pháp, hoặc dụng công chẳng chí cực, thì có sở đắc là ma, không
sở đắc là ngu si. Dù khi các cảnh tướng tốt hoặc xấu phát
hiện, cũng nên giữ vững chánh niệm, đừng quá vui mừng, kinh sợ, vì đó là những
chỗ hở để ma dễ nhập vào tâm. Người đời nay, khi tu hành, phần nhiều có tánh
hiếu kỳ, không chú trọng nơi chỗ dụng công, chỉ mong cầu được thấy hảo tướng.
Đã như thế, chẳng những không được cảnh tốt, mà do bởi vọng tưởng phân vân, ma
nhân đó giả hiện Phật, Bồ tát để gạt gẫm, khiến cho điên cuồng.
Ấn
Quang sợ e tập này in ra, không khéo lại thành mối duyên thúc đẩy kẻ vô tri sa
vào nơi hố sâu ấy. Theo ngu ý, chẳng bằng nên thôi đi là hơn...”
Lời Ấn
Quang đại sư dạy bảo trên đây thật là xác đáng. Nhưng, hàng cư sĩ bên Trung Hoa
phần nhiều trình độ học Phật khá cao, đối với tập này, có thể không là điều cần
thiết. Riêng Phật tử Việt Nam ta, sự hiểu đạo đa số còn
mông lung, tâm tu hành không thiết tha tinh tấn nên tôi muốn mượn tập này để
làm duyên tăng trưởng lòng tin cùng khuyến khích bạn đồng tu trên con đường
tịnh nghiệp.
Với
tập này, nếu người biết phân minh điều hay dở, thiết tưởng cũng không đến đỗi
có hại. Điều hay là xem gương người để sửa đổi, sách tấn; rút lấy kinh nghiệm
của người để làm lợi ích cho mình. Điều dở là như lời Ngài Ấn Quang đã chỉ
trích ở đoạn trên.
Xem
“Tự tri lục” xong, các hàng liên hữu suy nghĩ thế nào? Có lẽ chúng tôi nên hổ
thẹn nhiều với bổn phận mình, với Hồ nữ sĩ! Vậy ta nên rảo bước cố theo kịp
người trên đường về Cực Lạc. Ta phải thiết thực sửa đổi tăng tiến, chớ đừng
nhìn nơi chỗ sở đắc của người mà khen ngợi mong tưởng suông. Như thế là vô ích,
khác nào như kẻ nghèo ngồi nhà tính đếm gia tài của bậc phú ông? Và, nếu kẻ có
đôi chút công hạnh mà tham chấp cảnh giới, hoặc vọng cầu các hảo tướng quá phần
lượng, lại là một điều hại cần nên để tâm.
Trên đây là tất cả bao nhiêu điều thiết yếu.
Người bạn sen
Liên Du
HÒA THƯỢNG TÔN SƯ
Ngài Tam-Tạng Pháp-Sư Thích Thiền-Tâm, hiệu Vô-Nhất.
Sự Thật Về Cuốn Sách "Cực Lạc Du Lãm Ký"
CỰC-LẠC DU LÃM KÝ
DẪN NGÔN
Có người cho thế-giới Cực-Lạc là huyễn-dụ, để dẫn người
ưa thích cảnh đẹp vui, tiến bước vào cửa Phật-pháp. Hoặc lại có Kẻ tuy tin cõi Tịnh-độ
là hiện hữu, nhưng diễn đạt một cách sai lầm. Nhóm tu học trên đại-Khái gồm 3 dạng:
1.- Các ngoại-phái cho Tịnh-độ là cảnh thiên-tiên, có lầu
các, ao sen, cây báu. Hoặc Cực-Lạc là một thế-giới ở bầu Kim-tinh thuộc phương
Tây. Cho nên những vị ấy đã đề vịnh:
Trong động bích-sa trời đất Khác
Bên cành hồng-thọ tháng ngày dài!
Hay:
Đạo-đức từ-bi những bấy chầy
Thanh nhàn Cực-Lạc ở phương Tây!
Nhưng cõi Tây-phương Tịnh-độ cách thế-giới Ta-Bà nầy mười muôn ức Phật-sát ( số ức ở Ấn-Độ thời xưa trung
bình là 1.000.000 ), tức một trăm Tỷ cõi Phật. Đức Thích-Ca-Mâu-Ni lấy 1.000.000.000
thái-dương-hệ thuộc cõi Ta-Bà nầy làm một
Phật-sát để phân thân hóa-độ, gọi là Đại-thiên-thế-giới. Một Phật-sát có thể rộng
từ một cõi Đại-thiên cho đến vô-số cõi Đại-thiên. Như trong Kinh Pháp-Hoa, đức Thế-Tôn
thọ-Ký cho Ngài Phú-Lâu-Na về sau thành Phật lấy Hằng-hà-sa cõi Đại-thiên làm một
Phật-độ. Cho nên Kim-tinh hay cảnh-giới của thiên-tiên chỉ là ở trong phạm-vi một
Thái-dương-hệ, Không phải là cõi Cực-Lạc.
2.- Hàng Thanh-văn Không tin có cõi Cực-Lạc, hoặc chư
Phật, chư Bồ-tát nào Khác, ngoại trừ đức Thích-Ca và Di-Lặc. Điều ấy Không chi lạ, bởi cực-quả của Thanh-văn-thừa
là ngôi A-la-hán. Đạo-nhãn của A-la-hán chỉ thấy suốt trong phạm-vi một Đại-thiên-thế-giới,
Không thấy được cõi Cực-Lạc ngoài mười muôn ức Phật-độ, nên họ Không tin.
3.- Hạng tu học Đại-thừa, nhưng Không có căn lành về
Tịnh-độ, chưa tham cứu sâu về Hoa-Tạng thế-giới, chưa có Kiến-thức rộng về các Kinh
điển Đại-thừa, Không tin có cõi Cực-Lạc. Các vị ấy lý-thuyết-hóa cảnh Địa-ngục,
Thiên-đường, Tịnh-độ, cho đến chư Phật, Bồ-tát. Đại-Khái họ bảo: - Tâm tham sân
si Khổ não là Địa-ngục, tâm sáng suốt lành vui là Thiên-đường, tâm thanh-tịnh là
Tịnh-độ. A-Di-Đà là thể-tánh vô-lượng-quang thọ sáng-suốt, thường hằng -
Địa-tạng là tâm-địa, tánh-tạng, chớ Không
có đức A-Di-Đà và Địa-Tạng nào Khác. Đồ-hoạ cảnh Địa-ngục có quỷ Ngưu-đầu, Mã-diện,
lò lửa, vạt dầu là để răn người làm ác. Đồ-hoạ cõi Cực-Lạc có ao sen, cây báu,
lầu ngọc, đất vàng, là để Khuyến tấn dẫn dụ người làm lành. Lối lý-thuyết ấy chỉ
đưa người học Phật vào cái chấp thiên-Không tà-Kiến, bác phá nhân quả, Khiến
cho hàng Phật-tử mê-mờ lầm lạc! Thậm chí họ thấy ai niệm Phật, niệm Quán-Âm, tụng
Kinh điển Đại-thừa, đều dẫn lời chư Tổ xưa, tìm cách bác phá. Tổ nói với một ý Khác,
họ lại vin vào đó dẫn giải theo thiên-Kiến của mình với một ý Khác, thật đáng
buồn cười thương xót!
Các vị đó đâu biết rằng, Trí-Giả đại-sư là bậc Khai sáng tông Thiên- Thai (Cũng gọi là Pháp-Hoa-tông) Khi lâm chung niệm Phật và bảo chúng rằng: “Tây-phương tam thánh và các đồng bạn đã vãng sanh của ta đã đến đứng chờ giữa hư-Không để tiếp dẫn!”. Vĩnh-Minh đại-sư, một bậc long-tượng bên Thiền-tông, mỗi ngày đều niệm mười muôn câu Phật làm thường-Khóa. Và gần đây Hư-Vân đại-sư là hàng thiền-bá trong tông-môn cũng Khuyên người niệm Phật. Ấn-Quang đại-sư, một trong các vị tôn-đức thuộc cận-đại đã bảo:
“Tâm tức Phật. Ý hợp thinh. Như như niệm. Vô vô-minh. Điểm trần chẳng nhiễm căn tánh tình! Ba tạng giáo. Mười
hai Kinh. Muôn tám công-án lộ chân-hình. Phật, Tổ dạy. Nhiệm mầu linh!”
Trở lại vấn-đề:- Cõi
Cực-Lạc có
hay Không?
– Theo Phật-học,
bậc
trí-thức
muốn Khám
phá điểm nầy,
phải
căn-cứ với 3
điều-Kiện:
1.- Tỷ-thẩm-lượng: Đây là trí lường
xét qua sự so sánh, suy gẫm, Không
phải
chờ mắt
thấy
tai nghe rồi mới
xác nhận.
Thí dụ như ở thế-gian,
người đức hạnh
lành, chí công học hỏi…,
siêng cần
làm việc,
sẽ được Kết
quả
giàu sang, hoặc ít nữa
là danh tốt lưu truyền. Trái
lại, Kẻ
hung gian, độc hiểm,
dốt
nát lười
biếng,
làm điều
trái phép, sẽ bị
nghèo Khổ tù
đày, dù có được
no ấm
bình an, cũng chỉ trong vòng tạm bợ nhất
thời.
Nếu
người công-đức lành
quá lớn, Kẻ
tâm hạnh
ác quá to, tất phải
có cảnh Cực-Lạc, Thiên-đường,
hay Ngạ-quỷ, Địa-ngục để trả đền,
như thế mới hợp với
lý nhân quả, chớ Không
đợi tận mắt
trông thấy rồi mới
tin. Xin tạm trích ra đây một
đoạn vấn-đáp
trong Phật-điển
giữa
vua Milinda và tôn-giả Nagasena:
– Bạch Tôn-Đức! Trẩm Không thấy cảnh Địa-ngục, làm
sao tin được rằng
có cõi ấy?
– Thưa,
Đại-vương có trông thấy Dòng
nước rộng,
hai bên bờ nhiều Kỳ-hoa
dị-thảo tươi đẹp,
của
con sông U-Há, trên Dãy Hy-Mã-Lạp-Sơn hay Không?
– Bạch Tôn-Đức! Trẩm Không trông thấy.
– Thưa Đại-vương! Nếu
như vậy
thì Không có con sông U-Há ?
- Bạch Tôn-Đức! Trẩm tuy
Không thấy,
nhưng đã có nhiều
người chứng Kiến về
nói lại,
nên Trẩm tin có con sông U-Há.
– Thưa Đại-vương! Sự hiện-hữu của Địa-ngục
cũng như thế,
nên lấy
trí lượng xét,
phải
tin rằng
có cõi Địa-ngục, chớ Không
cần đợi
trông thấy.
2.- Hiện-thật-lượng: Từ xưa đến
nay có nhiều Phật-tử ở Ấn-Độ,
Tây-Tạng,
Mông-Cổ,
Trung-Hoa, Nhật-Bản,
Việt-Nam
tu Tịnh-độ,
hiện-tiền
hay lúc lâm-chung đã thấy những
thắng-tướng
của
cõi Cực-Lạc,
cho đến Tây-phương-Tam-Thánh đến
tiếp Dẫn
vãng sanh. Đây là sự hiện thật rõ-ràng,
có ghi vào sử sách. Nếu bảo Cực-Lạc là
cảnh huyễn-dụ, làm
sao có những tướng trạng ấy ?
3.- Thánh-ngôn-lượng: Chẳng
những
trong Tịnh-độ tam
Kinh, Đức Thích-Ca
đã nói sự trang-nghiêm
ở Cực-Lạc. Mà
trong các Kinh Đại-thừa Khác
như: Hoa-Nghiêm, Pháp-Hoa, Bảo-Tích...,
Phật
cũng từng
đề-cập đến sự việc nầy .
Và trong nhiều bộ luận,
chư Tổ đã
hằng
dẫn
giải về
môn Niệm-Phật cùng
cõi Cực-Lạc. Chẳng
hạn
như trong Đại-Thừa-Khởi-Tín-Luận của Tổ Mã-Minh,
Đại-Trí
-Độ-Luận của Tổ
Long-Thọ, Tịnh- Độ-Thập-Nghi-Luận của Tổ
Thiên-Thai Trí-Giả, cho đến
Vãng-Sanh-Luận, Niệm-Phật-Viên-Tông-Luận…
Người học
Phật
phải lấy lời của
Phật,
Tổ
làm mực
thước
mà lượng
định.
Nếu
đem chỗ thấy
biết cạn hẹp của
mình vội
bác phá Tịnh-độ, đó
chính là bác phá Phật, Tổ. Kẻ ấy Không
phải
là đệ-tử của
Phật.
Ấn-Quang
Đại-sư nói: “Phàm phu vì mê mờ, Không
tin có Địa-ngục
nên chư Bồ-tát,
Thánh thần
thường
dùng phương-tiện đưa người đến
cõi Địa-ngục
cho thấy
biết rồi
trở về
thuật lại để người đời Kinh
sợ mà
dứt dữ
làm lành. Chẳng hạn
như khi xưa đã có truyện
Thể-An-Hòa-Thượng
Du-Địa-Ngục-Ký,
hay gần đây
có truyện Địa-Ngục-Ký
của Sư cô Huệ-Hiền,
tục gọi
Cô Ba Cháo Gà ở tại Vòng-Nhỏ, Tỉnh
Mỹ-Tho.
Đây là truyện nơi Việt-Nam,
còn riêng ở Trung-Hoa thì Không biết
bao nhiêu trường-hợp tương-tợ như thế.
Trong bộ Tịnh-độ-Thánh-Hiền-Lục, ở Trung-Quốc vào
đời
nhà Minh, có truyện Viên-Tông-Đạo được
anh là Viên-Hoàng-Đạo đã vãng sanh, đưa hồn
sang Cực-Lạc để Khuyến tấn
tu hành. Cảnh của
Tông-Đạo
thấy
biết,
chỉ là
một
phần sự tướng
nơi Tịnh-độ, Không
đầy-đủ bằng
chuyện gần
đây của
Khoan-Tịnh-Pháp-sư ở Trung-Hoa,
được Quán-Thế-Âm
Bồ-tát
dẫn
sang Cực-Lạc, cho
thấy cả
chín phẩm
vãng sanh. Câu chuyện nầy rất
ly-kỳ do chính Pháp-sư trần
thuật lại,
và đệ-tử của
Ngài là Cư-sĩ
Lưu-Thế-Hoa
ghi chép. Cư-sĩ
cho đây là tiếng vang chấn động xưa nay, phát giác ra những điều mà
người trước
chưa từng
nói đến. Có
lẻ Đức Đại-bi
Quán-Thế-Âm
cùng chư Thánh thương xót chúng sanh cuối
thời mạt-pháp,
chỉ nương pháp-môn Tịnh-độ mới hợp
thời cơ để tu
tiến
và đảm bảo được sự giải
thoát, nên dùng phương-tiện khéo
mà hoằng-hóa
cứu độ đó
chăng? Điều nầy nếu
suy ngẫm đọc Kỷ đọc-giả sẽ tự hiểu.
Thời
gian trước,
Nguyễn-Công-Trứ đã
nói: “ Lỡ
duyên với rượu
khôn từ
chén. Trót nợ cùng thi phải
chuốc
bài!” Nhưng lời
ông, chỉ
nêu lên cái nghiệp dĩ về thơ rưọu của
mình mà thôi. Riêng bút-giả thấy
người đời nỗi Khổ già,
bệnh,
chết lần lượt
diễn
tiến,
mà phần
đông hãy còn lắm ước mơ tham vọng,
cố
hái hoa hạnh phúc trong vườn
trần mộng
huyễn,
nên bỗng
động
lòng từ-bi
mẫn
thế,
muốn
nhắc gọi đồng-nhơn thức Tỉnh,
mới
phiên dịch
ra quyển nầy. Xin
tạm mượn
hai câu sau để biểu lộ mối cảm
hoài ấy:
Mắt lệ đã
mờ sầu
biển lụy
Hoa tươi còn luyến
bóng xuân trần!
Và tiếp
theo, xin nhường
lời lại
cho Lưu-Thế-Hoa
Cư-sĩ.
Tệ-nạp :
Vô-Nhất
LỜI ĐẦU
Khoan-Tịnh Pháp-sư, quê quán ở
huyện Bồ-Điền, Tỉnh
Phước-Kiến, sanh
nhằm
ngày mùng 7 tháng 7 năm Giáp-Tý, dương-lịch 1924.
Thân-phụ
Ngài nguyên họ Phan, là một Cư-sĩ sùng tín đạo
Phật,
nhà ở số 140
đại-lộ
Quang-Đông-Trấn, tại
huyện-Thành.
Vào buổi
chiều
lúc Ngài sinh ra đời, hai bên phương trời
Đông và Tây kim-quang chiếu rạng,
mặt đất
như vàng ròng chiếu
sáng huy-hoàng. Do nhân duyên đó, cha mẹ mới đặt
tên cho là Phan-Kim-Vinh. Lúc bé thơ, thân-phụ chỉ dạy-học ở
nhà. Năm lên 7, do căn lành thúc giục,
Ngài năn-nĩ xin cha mẹ cho tới ở
chùa Giáo-Trung, Tỉnh Phước-Kiến,
nên Không có nhân duyên đến trường-học.
Tuy nhiên, Pháp-sư thiên
tư đỉnh-ngộ hơn người, thầy dạy Kinh
luật đến
đâu liền
nhớ đến
đó, chỗ giải
ngộ lại hơn các đồng
bạn.
Mãi đến
năm 15 tuổi, Ngài mới được
thế-độ với Hư-Vân lão-hòa-thượng ở
chùa Tổ-đình
Nam-Bình-Khai, cũng thuộc Tỉnh
nhà. Năm 17 tuổi, Hư-Vân Thiền-sư thấy
Ngài là bậc pháp-khí, đặc-biệt cho
thọ giới Cụ-túc
nơi chùa Nam-Hoa, Tỉnh
Quảng
Đông. Kế tiếp, Pháp-sư lại
chuyển đến
chùa Vân-Cư Tỉnh
Giang-Tây để tiện bề tu
học.
Ngài được Hư-Vân lão-hòa-thượng-truyền
chánh-pháp-nhãn-tạng, làm vị thừa-kế đời
thứ 48,
tông-phái Đổng-Vân (Tào-Động,
Vân-Môn hợp nhất).
Từ đó
về
sau, Pháp-sư lần-lượt
làm trụ-trì
trải
qua các tự-viện:
Khanh-Để-Bình,
Tiên-Phật,
Năng-Nhân, Khai-Bình, Mạch-Tà-Nham, Tam-Hội. Lúc
làm trụ-trì
chùa Tam-Hội huyện
Tiên-Du, Tỉnh Phước-Kiến, Pháp-sư tọa
thiền khởi đầu từ
ngày 23 tháng chạp, ngồi
luôn tới
ngày 29 mới xuất định,
kể tất cả là
7 ngày. Việc nầy
thuộc vào
năm 1980, làm toàn huyện
xôn-xao náo động, hàng đạo-tâm
đến
xin quy-y hơn
3.000 người. Năm
1982 Ngài sang nước Mỹ, làm
vị
tăng hành cước tại kinh
thành Nữu Ước (New
York) để tuyên dương Phật-pháp.
Ngài được
Phật-Giáo-Hội ở Bắc-Mỹ công-cử
làm Đổng-sự-trưởng
danh-dự
chùa Lạc-Na
chợ
Tam-Phiên, kế đến
làm Đổng-sự-trưởng
chùa Quán-Thế-Âm ỏ Lạc-Băn-Cơ.
Trên đây là vài nét đơn-giản
giới-thiệu Khoan-Tịnh
Pháp-sư, một bậc
cao-tăng hiện-đại.
Điểm
chánh yếu của tập
ký-sự nầy, là ghi lại
quá-trình chính bản-thân của
Ngài đã Kinh lịch sang cõi Cực-Lạc, tham
quan chín phẩm hoa sen ở Tây-phương, với những chi-tiết ly-kỳ
của thế-giới thanh-tịnh bên
ấy.
Việc
trên đây xảy ra vào ngày 25 tháng 10 Âm lịch,
năm 1967. Lúc đó Pháp-sư đang
ngồi
thiền ở
chùa Mạch-Tà-Nham,
đột
nhiên bị thần-lực của Đức Quán-Thế-Âm
đưa sắc-thân
Ngài đến tạm ẩn nơi động Di-Lặc,
rồi dẫn thần-thức sang Cực-Lạc. Pháp-sư có cảm
giác thời-gian du-lãm trên, chỉ trải
qua một
ngày một
đêm. Nhưng khi trở về nhơn-gian, đã là ngày mùng 8 tháng 4 Âm-lịch,
năm 1973, tính ra khoảng 6 năm 6 tháng. Việc nầy dường như vượt quá sự hiểu
biết thông-thường.
Nhưng đối với
môn Vũ-trụ-học,
thì Không-gian và thời-gian,
tùy mỗi thế-giới, vẫn
có những
điểm bất đồng
sai Khác. Theo các tích truyền kỳ thời xưa, có khi ở
cõi Tiên một ngày, nhơn-thế đã
trải qua
nhiều
năm tháng. Như một vị
vua xứ Ai-Cập,
mộng
thấy
mình lên cõi trên chỉ có 3 giờ,
nhưng khi hồn
trở về nhập
xác, nhơn-gian đã trải
qua 8 ngày đêm. Điều nầy người đủ
chút Kiến-thức về Phật-học đều
có thể lý
giải.
Khi Pháp-sư bỗng
nhiên mất
tích ỏ Mạch-Tà-Nham
tự,
toàn thể
tăng tín trong chùa đều tản
ra tìm khắp hơn 100 động
lớn
nhỏ
thuộc
vùng núi Vân-Cư. Lại nghe
có người
nói thấy
Ngài trên đường
đi đến Di-Lặc-động ở Cửu-Tiên-sơn, đại-chúng
cũng lên đó tuần tra mà Không gặp.
Thậm
chí nhiều
người
xuất
tiền
nhờ Thủy-quân
lặn
dò các ao đầm trong vùng, mướn đội Tuần-thám
đến
xét hỏi ở
huyện-Thành,
cùng các chợ Tuyền-Châu,
Hạ-Môn,
Phước-Châu,
Nam-Bình. Và đánh điện nhờ người ở
các huyện
xung quanh như
Vĩnh-Thái, Vĩnh-Xuân, Đức-Hoa, Phước-Thanh để hỏi
han. Như thế trước
sau vài năm, cũng bặt vô âm-tín. Nên hàng Phật-tử đều
cho rằng Pháp-sư đã lìa trần,
trong lòng bùi ngùi thương
cảm!
Kỳ thật, nhục-thể của Pháp-sư trước sau vẫn Không rời động Di-Lặc nửa bước. Do thần-lực chư Thánh duy-trì ẩn dấu, khiến cho thân không bị phát hiện và hư hoại. Pháp-sư là một bậc cao-tăng đắc định, giữ giới luật, tin nhân quả, quyết Không khi nào nói dối. Đây hiển nhiên là Phật, Bồ-tát vì lòng từ-bi muốn cứu vớt và thức-ngộ chúng-sanh thời mạt-hậu, đã dùng phương-tiện khéo truyền đạt lời giáo huấn qua bản thân Ngài mà thôi. Sự Kinh lịch của Pháp-sư Không phải là mộng-cảnh, cũng Không đồng cảnh-giới thấy biết của thiền-định, vì có những tình tiết qua sự vấn đáp, những điểm kỳ diệu qua nhận thức riêng của Ngài.
Và sau đây là tất cả điều
quan-yếu tôi
ghi lại
trong thời
diễn
giảng
của Pháp-sư ở
chùa Nam-Hải-Phổ-Đà-Sơn tại
Tân-Gia-Ba (Singapore) vào tháng 4 Âm-lịch năm 1987.
Lưu-Thế-Hoa
Cư-sĩ
Kính ghi
LIÊN-QUỐC HƯƠNG
DU GIẢNG THUẬT
DUYÊN
KHỞI
Nam-mô
A-Di-Đà Phật
Trình chư Tôn-Đức Tăng,
Ni
Thưa
chư quý Phật-tử!
Khoan-Tịnh xin gửi lời
chúc nguyện an lành đến tất cả chư quý vị.
Hôm nay chúng ta có duyên lành hội
ngộ nơi đây, tôi nghĩ đó là túc-nhân Phật-pháp
tiền
sanh, hoặc
các kiếp quá-khứ về trước. Đề-mục tôi
sắp
diễn
giảng,
chính là thuật lại
việc bản-thân
đã Kinh lịch sang thế-giới Cực-Lạc Phương-Tây, đem các tình cảnh
mắt
thấy
tai nghe tỏ bày cho chư quý vị
cùng được
rõ.
Xin chia lịch-trình
nầy qua 7 phần,
mỗi
phần gồm
nhiều
giai đoạn:
I.- Diễn tiến
tôi đến Cực-Lạc như thế
nào?
II.- Tình hình thật-tế trải
qua ra sao?
III.- Thuật lại
các cảnh-giới trước
sau tôi đã Kinh lịch gồm
các nơi: La-Hán-động,
cõi Tứ-Thiên-Vương, cõi Trời
Đao-Lợi-Đâu-Suất
thiên-cung.
IV.- Hoa sen Hạ-phẩm, gồm
có 3: Hạ-thượng ,
Hạ-trung
và Hạ-hạ-phẩm.
V.- Hoa sen Trung-phẩm, lại gồm
3: Trung-thượng,
Trung-trung và Trung-hạ-phẩm.
VI.- Hoa sen Thượng-phẩm, cũng gồm
3: Thượng-thượng,
Thượng-trung
và Thượng-hạ-phẩm.
VII.- Trên đường
trở lại nhơn-gian.
Và sau đây là các diễn-tiến ấy.
DIỄN TIẾN TRÊN BƯỚC KHỞI HÀNH
1.-
TỪ CHÙA MẠCH-TÀ-NHAM ĐẾN DI-LẶC ĐỘNG
Năm 1967, tôi đang nhậm chức Trụ-trì
tại Mạch-Tà-Nham
Tự.
Vào ngày 25 tháng 10 Âm-lịch, lúc quá nửa
đêm tôi đang ngồi thiền,
bỗng
phưởng-phất
nghe có tiếng gọi
pháp-danh mình, bảo đi mau. Vừa
khi ấy tự có
cảm
giác như bị đẩy tới
phía trước. Không
kịp
chuẩn bị,
tôi bước vội xuống
pháp-tòa, rồi như bị sức
thu hút, Không hỏi nguyên do, rão đi cực
nhanh ra khỏi tự-viện.
Bấy giờ
trong tâm tự biết
mình sẽ phải đến động Di-Lặc,
thuộc
vùng núi Cửu-Tiên, huyện Đức-Hóa,
cách chùa độ hơn 200 dặm.
Tuy đi rất
mau như thế,
nhưng Không cảm
thấy
đói khát mõi nhọc, cũng Không dừng
nghỉ. Lúc
ấy ỏ Trung-Hoa
nhằm
phong-trào Cách-Mạng-Văn-Hóa, Hồng-Vệ-Binh
tuần
tra các nơi.
Bấy
giờ
vào khoảng
3 giờ
sáng. Trong màn đêm đầy sương mù, tôi nghe tiếng
dân chúng đi trên đường
nói: “ Nay là ngày 25 tháng 10, nhằm
thời-kỳ
Văn-Cách, địa-phương rối
loạn, phải đổi hành
trình vào ban đêm, mới thuận
tiện
yên ổn!”
2.-
DUYÊN HẠNH NGỘ
Đi tới gần
sáng, đột
nhiên thần
trí tôi thanh Tỉnh trở lại.
Vừa
khi đó chợt gặp một Lão-hòa-thượng
trang phục
như mình. Hai bên vái chào, cùng thông tri
tên họ.
Hòa-thượng
tự giới-thiệu là
Viên-Quán Pháp-sư, muốn đến
núi Cửu-Tiên,
động Di-Lặc.
Gặp bạn đồng
hành, tôi vui-vẻ tán thành, rồi vừa rảo bước
đi, vừa
trò chuyện. Pháp-sư tợ hồ biết
rõ nhân quả mấy
kiếp về trước của
tôi, tuần tự
thuật lại từng
đời,
như sanh ở
đâu, cha mẹ là ai, tên họ gì,
sư sanh hoạt
tu hành như thế nào?
Ngài nói rõ ra mỗi điểm,
nghe dường
như truyện
huyền-thoại. Điều lạ
lùng là mỗi chi-tiết Pháp-sư nói ra, tôi đều
ghi nhớ rõ
Không quên. Bảy năm sau, tôi tìm dò hỏi về thời-gian
và địa
điểm
đó, thì tất cả đều
chuẩn
xác. Đại-khái
các đời ấy,
tôi đều
xuất
gia làm Hòa-thượng.
Chỉ có
một
kiếp
làm Cư-sĩ tại-gia,
vào triều
vua Khang-Hy đời nhà Thanh, ở
thôn Phương-Quế-Cách,
huyện Dõng-Thượng,
tên là Trịnh-Viễn-Tư, sanh 6 trai 2 gái, trong ấy
có một đứa
con thi đổ Tiến-sĩ.
Đến
nay hậu-duệ của giòng
đó hãy còn.
Đường đi rút ngắn rất
mau, dường
như có ai làm phép Hồ-Công-Súc-Địa, Không
bao lâu chúng tôi đã đến chân núi Cửu-Tiên,
một sơn-lãnh cao nhất của Tỉnh
Phước-Kiến.
Trên núi nầy có hang động
to rộng,
trong ấy
duy thờ một tượng Di-Lặc,
nên gọi
là Di-Lặc-Động.
Lúc chúng tôi tiến lên đến lưng chừng
núi thì trời đã hững
sáng.
BƯỚC KỲ
LẠ TỪ DI-LẶC-ĐỘNG
3.-
ĐƯỜNG TỪ DI-LẶC-ĐỘNG ĐẾN CẢNH TRUNG-THIÊN-LA-HÁN
Bấy
giờ cảnh
trí kỳ diễm bổng
xuất
hiện
trước mắt.
Tôi thấy đường
sá Không giống như lối
cũ mình đã từng trải
qua. Lộ-trình
biến
thành rộng-rãi,
lót toàn bằng đá đẹp,
phát ra ánh sáng chớp chớp.
Khi đi đến
hang động,
thì nơi đây cũng biến đối
trang nghiêm Khác với động Di-Lặc
lúc xưa. Chúng tôi bước
vào lễ tượng
Bồ-tát,
rồi
cùng ngồi
nhắm mắt dưỡng
thần
trong giây phút. Đang Khi ấy tôi nghe Hòa-thượng
Viên-Quán gọi bảo
ra sau núi du lãm. Tôi vội bước chân theo Ngài, thì một bầu
trời đất Khác
bổng lại
xuất
hiện.
Trước tầm mắt
tôi, một
tòa nhà cổ-tự
nguy-nga đứng lồ-lộ,
nét huy-hoàng tráng-lệ còn hơn cố-cung
của
vua nhà Thanh ở Bắc-Bình.
Hai bên ngôi chùa to rộng ấy,
có hai tòa bảo tháp đẹp
cao đồ sộ.
Chúng tôi lần tiến bước đến sơn-môn, thấy cửa Tam-quan
nầy làm toàn bằng
đá hoa trắng, lối Kiến-trúc
thật
hùng-vĩ oai nghiêm. Trên cổng vào có tấm
biển lớn
khảm
chữ
vàng chiếu
ánh chói ngời, 4 kim-tự nơi biển
ngạch Không
phải
chữ Trung-Hoa,
chữ
Anh hay chữ Phạm,
tôi hoàn toàn Không hiểu thấu. Trước sơn-môn có 4 vị Hòa-thượng đã
đứng
sẵn
đón chờ,
mình đắp y
đỏ, lưng thắt
đai vàng, pháp-tướng
cao lớn
trang-nghiêm. Khi thấy chúng tôi đến họ
vái chào. Tôi và Hòa-thượng Viên-Quán
cũng vội-vàng
đáp lễ.
Lúc đó trong tâm tôi có chút nghi-vấn,
tự hỏi:
“Trang phục của mấy vị nầy mình chưa từng
thấy
qua. Có lẽ họ là
những
vị Lạt-Ma
chăng!”. Các vị ấy dường
như biết,
chỉ mỉn cười bảo:
“Đã đến
đây rồi,
xin hoan nghinh!” Rồi mời
chúng tôi vào.
Khi tiến bước khỏi cổng
chùa, trải
qua vài tòa điện-vũ, tôi thấy đền
đài xinh đẹp tráng-lệ, điểm kỳ-diệu
là mọi vật đều
phát ra ánh sáng. Xung quanh các điện đều
có hành-lang rộng bao vòng. Ngoài hành lang nhiều sắc kỳ-hoa
dị-thảo
điểm
tô. Ra xa hơn
là những
hàng cây lạ cao vút. Vào chùa nhìn qua cửa
song, vẫn
có thể
trông thấy bảo-tháp
và các tòa Kiến-trúc. Trong viện
trưng bày rất
nhiều đồ cổ-ngoạn
khéo đẹp kỳ
lạ. Lần bước
lên tới
ngôi đại-điện
thứ nhất,
ngước
trông là bốn Kim-tự lớn
sáng chói, loại như kiểu chữ đã
thấy
bên ngoài. Tôi hỏi Viên-Quán lão-hòa-thượng,
Ngài đáp: “Đó là bốn chữ
Trung-Thiên-La-Hán. Lòng thầm nghỉ. Thì
ra đây là Trung-Thiên-La-Hán Tự, nơi các vị A-la-hán
tu trì, một thế-giới thần
tiên ở nửa lừng
trời.
Chỗ nầy Không còn là cảnh nhơn-gian nữa. Thảo
nào mà mọi vật
chẳng
đều Khác
lạ
phi phàm”.
Bốn đại-tự ấy, hiện tại tôi còn nhớ được một hình chữ Khuôn-hoa.
Riêng ba chữ
kia, thì đã mờ trong ký ức.
4.- QUANG-CẢNH ĐỘNG LA-HÁN
Bấy
giờ
khung trời
sáng rạng-rỡ,
xung quanh, non mây ráng đẹp bao vòng. Chỉ thấy
trong và ngoài điện đông đảo
người
ra vào, gồm nhiều sắc
da như: vàng, trắng,
hồng,
ngâm ngâm đen, màu cam sẫm, nam nữ trẻ
già đều đủ cả. Trong
ấy
người
da vàng ánh chiếm đa số.
Y-trang của họ
cũng kỳ lạ, tùy màu sắc
phát ra nhiều ánh sáng Khác nhau. Dường
như nơi đây, ngoài chư vị A-la-hán,
còn có các vị thần
tiên đến
tham quan hoặc học đạo. Đại-chúng
kết hợp
thành nhiều đoàn, như nam-giới tập luyện
võ-thuật,
nữ-giới
trổi
nhạc
múa ca. Mấy lão-nhơn thì chăm-chú nơi cuộc cờ,
xung quanh một số người
theo dõi. Ngoài ra có vị lại
ngồi Tĩnh-tọa dưỡng
thần.
Tất cả đều
hiện sắc
thái an nhàn vui-vẻ. Khi thấy
chúng tôi đến, họ ngẩng
đầu lộ
nét thân thiết mỉm cười,
gật đầu
chào đón. Nhưng
mỗi
người
theo phần
việc của
mình, Không giao tiếp hỏi
han. Lúc đến tòa đại-điện,
tôi lại
thấy một
hoàng Kim-tự lớn. Viên-Quán
Pháp-sư bảo
đó là bốn
chữ Đại-Hùng-Bảo-Điện. Từ
trong điện tiến
ra 2 Lão-hòa-thượng chắp
tay nghinh tiếp. Thoáng mắt
nhìn qua, tôi ghi nhận một vị
râu dài bạc trắng,
còn vị
kia Không để râu. Hai Lão-hòa-thượng thấy Viên-Quán
Pháp-sư, liền vội
gieo năm vóc thi hành đại lễ.
Thấy
tình trạng
đó, tôi thầm nghĩ: “Trung-Thiên-La-Hán đối với Viên-Quán
Pháp-sư, mà lễ
bái như thế, tất
Ngài Không phải là bậc tầm
thường
rồi!”
Sau khi tham lễ nơi đại-điện, hai
lão-nhơn mời
chúng tôi sang Khách-thính. Vào nhà Khách vừa
ngồi
xong, một Lão-hòa-thượng nhìn
đồng-tử hầu cận,
ra ý bảo đem hai chén nước
giải
khát. Đồng-tử nầy đầu kết
hai búi tóc, gương
mặt hồng-hào
rạng-rỡ,
mình khoác y lục, lưng thắt
đai vàng, tướng trạng
rất
thanh đẹp!
Nước
trong chén sóng sánh màu bạc, thơm ngọt Khác
thường!
Tôi uống
hơn nửa
chén, Viên-Quán Pháp-sư đưa mắt tỏ ý
bảo
dùng hết. Tôi
vâng lời,
cảm
biết
trong người tươi khỏe,
tinh-thần bội
phần
thanh sảng,
Không còn một điểm mỏi
nhọc.
Kế đó
Viên-Quán Pháp-sư cùng
Lão-hòa-thượng nói
với
nhau bằng
một Âm-ngữ lạ mà
tôi Không được biết.
Tiếp
theo, Hòa-thượng sai
đồng-tử đem
tôi qua hậu-phòng tắm rửa.
Vừa bước
vào, tôi thấy nơi đó có sẳn một bồn nước
trong, gần
bên vắt
chiếc khăn
và bộ y-phục màu
lam của
nhà chùa để thay đổi.
Sau khi tắm gội
lau mình xong, thâm tâm tôi mười
phần tươi t
ỉnh
nhẹ
nhàng! Lòng thầm nghĩ: “Hôm nay quyết định
mình đã đến Thánh-cảnh rồi
đây”. Tâm tràn ngập niềm
an vui thật khó diễn tả!
5.- THƯA
THỈNH VỀ HIỆN-TÌNH VÀ TƯƠNG-LAI
PHẬT-GIÁO
Khi trở lại Khách-thính,
tôi đến
trước 2
Lão-hòa-thượng cúi
xuống
lễ ba
lạy,
rồi qùy
chắp
tay cầu
xin chỉ điểm về hiện-tình
và tưong-lai của
Phật-giáo.
Vị Hòa-thượng râu
dài Không đáp, cầm bút lông viết 8
chữ
trên giấy
như sau:
PHẬT TỰ
TÂM TÁC - GIÁO DO MA CHỦ
Viết
xong Ngài đưa tờ giấy
trao sang. Tôi xem qua Không tường
tất hết ý
của 8
chữ, lại cầu
xin khai thị cho rõ thêm. Vị Hòa-thượng kia
thay lời
giải
đáp: “ Tám chữ ấy,
ông có thể sắp
song song, xem ngang nhìn dọc, từ
trái sang mặt, từ mặt
sang trái, đảo lộn từ dưới
lên trên, từ trên xuống
dưới.
Như phân ra thành 36 câu, có thể hiểu
rõ tình huống Phật-giáo
từ
đây đến một
trăm năm về sau. Nếu lại
diễn đạt rộng
36 câu thành 840 câu, tất biết được
tình hình suy thạnh về tương-lai Phật-giáo
của
toàn thế-giới,
cho đến
khi Chán-pháp của Đức Thích-Ca
hoàn toàn mất tích nơi cõi Diêm-Phù. Khi trở về nhơn-gian , ông nên suy ngẫm
cho tinh-tường
sẽ tự
thông hiểu”.
Theo thiển
ý, đại-Khái
vào thời mạt-hậu,
tà ma ngoại-đạo
xen lẫn
vào làm lệch lạc
Chánh-pháp. Cho nên người
tu Phật
phải
chính-chắn đề
phòng, chớ chấp
mê theo hình thức, cũng đừng
vội
phế bỏ
hình thức, cẩn
thận
suy nghĩ gạn lọc Kẻo
sai lầm.
Đó là ý nghĩa: “Chánh giáo do ma làm chủ động,
Phật-quả tự tâm mình liễu đạt
tu hành”. Còn về phần
840 câu, đợi tương-lai khi cơ duyên thành thục sẽ
công-bố. Nếu
chư vị muốn được sớm
hiểu
biết,
nên khởi
công nghiên cứu. Đây thiết tưởng
cũng là một điểm
lý thú về
văn nghệ.
Sau khi giải sơ-lược mấy
điều
xong, Lão-hòa-thượng bảo
tiểu-đồng
đưa tôi vào phòng tạm
yên nghỉ.
Lúc bước
vào, tôi thấy trong phòng Không kê giường
nằm,
chỉ có
một
chiếc
ghế kiểu
trạm
trổ rất
thanh nhã, trên lót nệm ngồi.
Tôi bước
lên tĩnh-tọa, cảm
giác thân tâm thanh nhẹ, thần
trí lâng lâng.
Ngồi
chưa bao lâu, đã nghe tiếng Viên-Quán
lão-pháp-sư kêu
gọi.
Tôi mở mắt bước
xuống
ra khỏi
phòng. Lão-nhơn nói:
“Ngay bây giờ, tôi đưa ông vượt qua cõi trời Tứ-Thiên-Vương và Đao-Lợi,
đi thẳng
lên Đâu-Suất-Thiên-cung bái-Kiến Di-Lặc Bồ-tát
và để gặp
thầy của
ông là Hư-Vân Thiền-sư”. Tôi đáp: “Rất
hân hạnh,
xin vô cùng cảm tạ!” Lúc
rời
khỏi đại-điện,
tôi bổng trực
nhớ,
muốn
trở lại
giã từ
hai lão-hòa-thượng.
Pháp-sư bảo: “Không
cần
thiết
phải
cáo từ,
thời
giờ chẳng
còn nhiều nữa!”
Tôi chỉ biết
yên lặng
rão bước
theo Ngài.
6.- TỪ LA-HÁN-ĐỘNG ĐẾN CÁC CÕI TRỜI
Trên đường đi, nhiều
ngân-điện, Kim-lâu
cùng bảo-tháp
tráng-lệ,
hùng-vĩ trải qua tầm mắt,
mỗi
tòa đều
phóng ra ánh sáng nhiều màu. Nhưng vì Lão-pháp-sư cứ nhắc bảo
tiến bước
mau, nên tôi Không rỗi rảnh để
quan sát. Con lộ chúng tôi đi toàn là đá trắng
ngần
ngời
chớp. Hai
bên triền
núi Kỳ-hoa dị-thảo
theo gió đưa
qua lại,
hương thanh ngào ngạt,
khiến
cho người tâm
thần
vui đẹp. Sau
nầy tôi mới
chú ý, vì thời-gian
ở thượng-giới Không
đồng
cõi tục, Không
nên dần-dà
chậm
trể. Nếu
chẳng
thế
khi trở về nhơn-gian, có thể đã
trải
qua vài trăm năm, hoặc vài ngàn năm Không chừng!
Chuyển
qua vài đoạn quanh co, trước mặt
tôi bổng xuất
hiện một
chiếc cầu rộng
dài vĩ-đại.
Nhưng kỳ lạ,
cây cầu
to lớn nầy, chỉ có
đoạn
giữa nổi lơ-lửng
nơi hư-Không, còn đầu
và đuôi cầu Không tiếp nối với đường
lộ. Nhìn
xuống
dưới
là vực
sâu muôn trượng.
Tôi tự
nói lẩm-bẩm:
“Làm thế
nào qua khỏi chiếc cầu
như thế nầy ?”.
Viên-Quán Pháp-sư dường
như hiểu được
tâm niệm
ngần-ngại của
tôi, liền hỏi: “Hằng
ngày ông trì niệm những Kinh
chú nào?” Tôi đáp: “Bình nhựt Vãn-bối
thường
tụng Kinh
Pháp-Hoa và chú Lăng-Nghiêm” Ngài đáp: “ Tốt lắm! Ông
hãy tụng
chú Lăng-Nghiêm đi!” Tôi vâng lời niệm
nho nhỏ.
Chú Lăng-Nghiêm có hơn
3.000 chữ,
tôi vừa mới tụng
được mấy
câu, trước mắt chợt hiện
ra cảnh
tượng
lạ. Chiếc cầu
dài to bổng biến
thành vàng ròng, bảo-sắc
chiếu
sáng, hai đầu nối
liền với đường
đi, dường
như chiếc móng
thất-bảo cong
vòng lên giữa hư-Không, xinh đẹp Không
thể tả!
Hai bên lan can cầu có nhiều lồng
đèn châu ngọc treo lơ-lửng
phóng những
tia sáng nhiều màu. Đầu cầu
có 5 Kim-tự lớn,
giống
như Kiểu
chữ ở đại-điện. Tôi
thầm
nghĩ: “Đây nhứt định
là mấy
chữ: TRUNG-THIÊN
LA-HÁN KIỀU”.
7.- TỪ CÕI TỨ-THIÊN-VƯƠNG
ĐẾN TRỜI ĐAO-LỢI
Đáp xong câu đó, Ngài dạy tôi vẫn
niệm Chú
và Tiếp-tục lên
đường.
Tôi vâng lời, vừa đứng
lên niệm mấy
câu, dưới
đôi chân bổng có hai tòa sen trong suốt
như thủy-tinh,
phát ánh sáng xanh hiện ra đỡ
gót. Các cánh của hoa nở
bày và phóng những tia sáng lạ.
Bay tiếp
lên cao, vô-số cảnh
vật Kỳ
lạ, rực-rỡ như cầu
vòng, chiếc móng, xoay tròn như quả cầu,
đẹp
như hoa, sáng như điện,
vượt
lui mau qua sau thân Chúng tôi. Trong những
tầng
mây ráng lạ, ẩn
hiện vô-lượng đền
đài lầu
các, những
chóp đỉnh
tháp, hoặc
xa hoặc gần
chẳng
đồng.
Viên-Quán Pháp-sư giới
thiệu: “Đây
là Đao-Lợi Thiên-Cung,
tầng
trời
thứ 2
của Dục-Giới,
vượt
cao hơn cõi Tứ-Thiên-Vương, và cũng nghiêm đẹp hơn. Cảnh-giới nầy thuộc
vùng của
Thích-Đề-Hoàn-Nhân,
thống
lãnh tất cả 33
cung trời,
người
trần gọi
Ngài là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.
8.- TỪ ĐAO-LỢI-THIÊN ĐẾN CÕI ĐÂU-SUẤT
Không có thời giờ dừng
lại
chiêm-quan, Chúng tôi lại Tiếp-tục bay lên vượt qua một tầng
trời nữa.
Viên Lão-pháp-sư nói:
“Hiện-tại đã
đến
cõi Đâu-suất-đà (Tusita),
tầng
trời
thứ tư của Dục-Giới. Chớp mắt Chúng
tôi đã đứng
trước cổng
một
tòa điện-các.
Chỉ thấy hơn vài mươi vị thân-tướng cao
lớn trang-nghiêm
đến
nghinh tiếp Chúng tôi. Trong đó nhìn kỹ tôi
nhận
ra một vị
chính là ân-sư của
mình: Hư-Vân lão-hòa-thượng.
Còn hai vị nữa
là Diệu-Liên
hòa-thượng và
Phước-Vinh
đại-sư. Hai Tôn-Đức nầy đều
đã sanh lên Đâu-Suất Nội-Viện.
Tất cả đều đắp
cà-sa đỏ,
màu sáng chói tươi đẹp Khác
thường.
Thấy
ân-sư, tôi vội-vàng
tới
trước đảnh
lễ, tiếp đến
bái Kiến
hai vị Tôn-Đức kia.
Cách xa lâu ngày mới được gặp,
tôi Không ngăn được
lòng bùi ngùi cảm xúc. Ân-sư bảo: “Hãy
bình tĩnh, đâu có điều chi đáng thương cảm!
Ngươi có biết vị
nào đã đưa mình hôm nay đến
đây chăng?” Tôi đáp: “Bạch sư-phụ. Đó
là Viên-Quán lão-Pháp-sư. Sư-phụ
nhìn tôi với đôi mắt
nghiêm nghị bảo: “Đây
là vị mà
mỗi
ngày ngươi thường lễ niệm, đức Đại-từ-bi
cứu Khổ nạn Quán-Thế-Âm
Bồ-tát
đó!” Nghe qua, tôi chợt Kinh động,
vội
quay lại đảnh
lễ Viên-Quán
Lão-pháp-sư 12
lạy,
rồi đứng
lên chắp
tay Kính cẩn, Không biết
nói năng gì!
Comments
Post a Comment