NHỊ KHÓA HIỆP GIẢI

 

Ngài Quán Nguyệt Chú giải

Hòa Thượng Thích Khánh Anh Dịch giả



TỔNG QUÁT Ý NGHĨA KINH THỜI MAI

 


Người tu phật, trước hết phải học cho thông suốt cả chữ lẫn nghĩa của trọn thời khoá tụng, để tiện khi vừa tụng thuộc lòng, vừa xét hiểu ý nghĩa. Lại trước phải luyện cái tâm tập định được thuần thục, vì không thì, với cảnh lộn xộn, tâm phải rối ren, pháp quán tưởng khó thành được ! Nên với giờ sớm là lúc muôn cảnh chưa đông đạt, tâm ta còn im lặng, liền dậy súc rửa, thay quần áo, đi niệm "Chú phật đảnh Lăng Nghiêm tâm", là để sớm trị cái bịnh ngũ dục chưa mống mầm, chóng kỳ cho được tâm hồn phẳng suốt, rỡ bày ngay cái tánhmầu chơn như của như lai tạng, đó là chỗ gọi rằng "phẳng lặng chẳng động, hễ có cảm đến đâu là liền suốt thấu đến đó".


Kế đến gia trì đọc bài " Đại bi thần chú" bài "Như ý Bửu luân vương chú", đồng để rữa sạch những bụi phiền não trong tâm ta, hễ bụi lòng đã sạch, thì tỏ được lòng Đại Bi đồng thể chuyển đặng xe Pháp luân Như ý; tụng "Chú tiêu tai cát tường"là tan mất điều tai ương, đưa đến sự yên lành, xe pháp luân lại càng được vững chãi; tụng "Chú Công đức Bảo Sơn" thì điều lành đã hiện nơi tâm, ở núi pháp tánh, đặng ngọc báu bằng công đức; tụng "Chú Chuẩn Đề" là còn e pháp tánh khó tỏ bày, nên phải đọc chú này, cho tan sạch lý chướng đi thì mới khiến pháp tánh được quả toại; tụng "Chú Quyết định quang minh vương" thì sự đắc quả đã toại rồi, liền phải cầu cái tri sống lâu của đức Quang minh vương Như lai; tụng "Chú Dược Sư quán đảnh" là trí sống lâu đã phát triển, trí ấy lại như mặt trăng báu mà trong bình lưu ly hàm tàng nó, tia sáng nó rọi ngay vào đảnh đầu, nên gọi là quán đảnh; tụng "Chú Quan âm linh cảm" thì được họp sâu vào lỗ tai viên thông cả pháp giới của đức Quan Thế Âm sự linh cảm hay vô cùng, tỷ như trăng soi mà vắng, vắng mà soi; tụng "Chú Thất phật diệt tội" là e nghiệp cũ còn mù mờ, mặt nguyệt trí khó tỏ rạng ra cần phải diệt sạch cái căn nghiệp từ vô thỉ, nên gọi diệt tội; tụng "Chú vãng sanh", thì căn bổn nghiệp chướng đã sạch, mong cầu đức Di Đà rưới nước gội vào đảnh đầu, như chứng cảnh tịnh độ. Tụng "Chú Thiện thiên nữ", là gom pháp quán mầu nhiệm trên, để cọng thành diệu dụng của pháp tánh, thì những chỗ nguyện, đều được kết quả toại lòng; song với sự tụng các chú mật nhiệm ấy, thì đã tiến vào pháp diệu quán, phải biết đều là bởi nhứt tâm làm nên, còn e chấp trước nơi quán cảnh, nên phải tụng thêm "Chú Bát nhã tâm kinh", là để chỉ ngay cái tâm thể nó vẫn không, chẳng có cái cảnh trí khá đặng, vì tâm là cái "Không" mà cái "tướng" của không ấy cũng không luôn, thế là 1. Trí cảnh rõ ràng, 2. phi đồng phi dị, 3. Hai bên tuyệt vời, tức là 3 pháp quán trọn đủ rồi.


Trên đó, cà 12 bài mật chú và một bài hiểu kinh (tâm kinh), ý nghĩa nó đều gồm thâu lẫn với nhau; người khoá tụng rồi, lấy công tác hành trì đó, gom lại đem hồi hướng lên ngôi Tam bảo chứng minh, để : nguyện và đáp Bát Bộ Thiên Long Hộ Pháp với tất cả 4 ân, 3 hữu, 8 nạn, 3 đồ, đều nhờ ơn khỏi khổ nước trị dân an, Đàn Việt, tín độ thêm phúc huệ; tam môn là cửa ngõ chùa chế tạo hình tam quan mở 3 cửa, nên gọi tam môn, tức sơn môn, là nguyện cả các chùa đều thanh tịnh, để tiến vào 3 cửa giải thoát, thập địa đốn siêu: là nguyện cho tất cả chúng Tăng ở các chùa đều chóng tiến lên bực Thập địa Bồ tát, nên kết thúc về bài kệ hồi hướng; nhiên hậu mới niệm phật, để cầu cho được thật chứng; phải biết rằng : Niệm một Phật A Di Đà, thì cả chư Phật khác, cũng đều hội hườn lại một.... Vì lẽ phật phật đạo đồng, đồng danh đồng hiệu, tức là một thân lẫn nhau với nhiều thân, tự cùng hoà nhau với tha rốt lại lấy 3 tự quy y, là hoàn toàn thâu cả công đức đã tụng các bài mật chú, hiểu Kinh trên, là để kết thành ngay ngôi Tam bảo của tự tánh, chứ chẳng mượn quy y bên ngoài. Như vậy là trọn rỡ bày của pháp Đại tổng tưởng của nhứt tâm. Thế thì gặp những Phật hiệu chi, bài chú gì....chẳng phải là tự tánh Như lai tạng ư?


 

TỔNG-QUÁT Ý NGHĨA THỜI KINH CHIỀU



Rạng mơi là lấy nghĩa rằng tâm hồn vẫn còn suốt phẳng làm cốt; còn chiều hôm là dùng ý rằng hướng ngay về tịnh độ làm chủ.


Chín bởi người ta ai cũng có nghiệp chướng từ kiếp trước, nên hễ ai mà việc tu hành có công dụng hơi tiến bộ, thì tức có Ma chướng nó thử thách. Thế, nếu phi cái tâm cho tinh thành gồm đấy để trấn tỉnh, thì há dễ gì dẹp điều chướng,xua loài ma. Nên chi, với lúc mà cảnh còn đương vắng, tâm cũng đương thanh, bấy giờ ta lo trì chú thì dễ được phần linh nghiệm. Nhược bằng buổi chiều, với điều nên hơn hết là, gom góp những việc lành đã làm vừa rồi, để chỉ quy về Tịnh độ, khá gọi "làm công nơi đầu, gom đức nơi cuối". Nên chi, với thời kinh chiều, bắt đầu tụng "Kinh A Di Dà", là để chổt được cái cảnh mầu chánh báo là căn thân, y báo là quốc thổ của nước Cực lạc, và đặc biệt khuyên người chuyên tâm niệm danh hiệu Phật để làm "Chánh nhơn", thế chính là muốn cho chúng sanh chán lìa cái cảnh toàn uế của thế giới ta bà, ham lấy cái cảnh toàn tịnh của thế giới thanh thái.


Tụng "chú Vãng sanh" tức là hy vọng đức A Di Đà đến trụ trên đảnh đầu của ta, để gia bị cho ta nhổ trốc gốc rễ của nghiệp chướng, và chứng nhận cho ta được giải quyết vãng sanh.


Mặc dầu thế, người hành đạo như chúng ta, tâm lý nó còn vọng tạp lắm, nên với nghiệp chướng từ vô thỉ, chẳng dễ gì chỉ tụng chú ấy mà có thể bạt trừ liền sạch đi được, vì còn những tập khí là hôi há của nghiệp chướng, thành thử phải y theo văn Hồng danh Bửu sám mà phát nguyện rằng : "con nay dấy lòng sám hối đây, là chẳng phải vì cầu cho con sẽ hưởng phước lớn giàu sang làm người hay trời....mà chỉ nguyện cho con và cả chúng sanh trong pháp giới đồng đắc quả phậtmà thôi". Phát nguyện như thế rồi, xướng lạy 88 hiệu Phật, để sám hối tất cả căn nghiệp từ vô thỉ.


Kế tụng bài kệ 10 đại nguyện của đức Phổ Hiền, là để khoách sung lại lời phát nguyện trước,ngõ đặng tục đế dung thông với chơn đế, cũng như đắc pháp tam muội của Phật trí, thì tất cả pháp gì đều in hiện tượng, vào biển trí ấy, tỷ như tất cả sự vật gì, cũng điều in hiện tượng vào biển cả, nên nói đắc 2 đế dung thông nhau, cũng như hiện tượng in thông vào biển. Thế là tỏ nghĩa cứu cánh rằng cảnh đẹp hiệp tâm, tha hiệp tự, vẫn liền in như một.


Đó rồi tụng bài Mông Sơn, thiết lễ thí thực, để rộng ra tế độ, các đảng cô hồn nơi âm cảnh. Thế là tỏ nghĩa rộng lớn rằng : Chẳng những dương thái, mà còn nguyện âm siêu, kẻ tồn người vong đều được phổ độ.


Kế tụng "Chú Bát Nhã tâm kinh" là để biết rằng : Tỏ được lẽ, tội phước đều vô chủ, nhơn pháp đều vô tướng, mới rõ thấu được cái tướng chân thật, vì "Thật tướng" nó phi như tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ mạng, bởi các tướng ấy đều có diệt, vì có sanh, còn "tướng thật" thì không diệt, vì nó không sanh, vậy cái bất sanh bất diệt, mớilà "tướng chơn thật".


Kế tụng "Chú Vãng sanh" là lặp đi lặp lại để nhờ đức A Di Đà rọi hào quang đến đảnh đầu ta để hộ niệm cho ta, để cho chú vãng sanh đượchiệu lực rằng : Đổi lục đạo làm tịnh độ, khiến hữu tình hay chúng sanh liền chứng lên bực thập địa bồ tát. Kế đến niệm Phật hồi hướng, để thể thủ lấy lẽ thật chứng; đến rốt lại cũng kết thúc về tam quy là : Từ thỉ chí chung, việc công tác nầy có bao phép lành, mỗi mỗi đều tập trung về ngôi "Tự tánh Tam Bảo" để nguyện cho pháp giới chúng sanh đồng dấy cái tâm vô thượng bồ đề, và trí Phật tròn đủ làm biết tất cả chủng chủng.


Hai thời sóc, vọng làm lễ "Chúc tán", đó là cầu đảo đức Hộ Pháp Vi Côn, cả chư thiên Bát bộ, các thần Hộ giáo Già Lam, để nhờ các Ngài ủng hộ ngôi Tam Bảo, và ngăn dẹp những Ma chướng khi dễ bên ngoài, đặng giữ chánh đạo bên trong.


Hỏi : Với pháp quán hoàn toàn vi diệu không thể nghĩ bàn ấy, chỉ giúp cho những người bực thượng căn, mới có thể tu học nổi; còn với hạng căn tánh bực trung hạ thì, phải tu học cách nào?


Đáp : Chỉ phải chăm một lòng vừa đọc lại vừa tự nghe, mỗi chữ rõ rành, hoặc quán xét ngay nơi chữ mà lòng không hôn trầm tán loạn; 2 cảnh sở quán sở văn có sanh diệt, chứ tánh năng quán, năng văn tỉ như cái thể sáng của gương vẫn tự tại chẳng dời. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói : "Với lúc tiếng chuông không reo, tánh nghe đã chẳng diệt, lúc mà có tiếng chuông reo, tánh nghe cũng phi sanh; đều lìa hẳn luôn hai cảnh có sanh diệt, như thế tánh nghe mới thường chơn thật". Đấy cũng chính là nghĩa trên đây bảo thế.


Hỏi : Trong lúc dụng công để tu, muốn vọng tưởng dứt lặng đi, mà nó lại loạn động lên mãi, thì lấy gì để đối trị?


Đáp :mặc kệ cho vọng tưởng sanh khởi, không kể, chỉ cốt là ta liền nhớ thâu tỉnh tâm lại, chăm chú đừng cho tâm niệm lững dời đi là được. Tỷ như chủ ý của con mèo chăm bắt con chuột, hẳn không có một cử chỉ gì để buông rời. Lúc ta đương dụng công để tu quán hay tụng niệm gì, dẫu như tâm tu có lững tán đi, thì phải thâu kéo nó lại, cứ thế thâu tâm về mãi không thôi. Cái công thâu tâm ấy càng nhiều càng nhặc, càng dày, thì tự nhiên nó kế tinh lại thành một thể vô tướng. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói " Với cái động, và tịnh của cảnh, tánh nó chẳng dời, lúc nhớ lúc quên, tánh vẫn như một, phải từ chỗ đó, để lần lượt đi sâu vào, mãi cho đến giai đoạn quên cảnh quên tâm, và với cái "quên" cũng quên luôn đi, đến tận cảnh tịch diệt, là chứng được pháp tánh".


Hỏi : những hành giả nào trí lực kém thiếu và thân thể ốm yếu, hoặc gặp cảnh thiện hay ác quá thạnh, thì tâm niệm trước dù phải, nhưng tâm niệm sau lại chẳng phải, nghĩa là với cảnh thiện thì chẳng động tâm theo thiện, gặp cảnh ác tâm cũng xúc cảm theo ác, nên nói trước phải sau chẳng phải. Cứ thế, trải qua nhiều năm chất chồng lắm tháng, mà rốt cũng chẳng thâu tâmniệm lại được thì sao?


Đáp : hành giả nào mà tâm trí bất lực, vì không tự chủ được với hoàn cảnh, là bởi nghiệp chướng từ đời trước quá nồng hậu ! thì hành giả ấy cần phải phấn phát chí dũng mãnh, gieo lòng chí thành khẩn thiết, lạy sám hối theo bổn lớn, cốt đợi cho nghiệp chướng tiêu diệt, chừng đó, tâm trí mới có phần đắc lực.


Thế nên người xưa đành chịu trụï vào chỗ Tử tâm (Diệt tận định : diệt ý thức đi, chẳng cho nó hiện hành hoạt động gì hết; như chết rồi, nên gọi tử tâm: Chính tổ Ca Diếp thường ở trong "Diệt tận định" nghĩa là không cho ý thức tư tưởng gì hết là nghĩa là tử tâm, tức không dùng đến tư tưởng). Tu như thế, hoặc suốt đời, hoặc một kỳ hạn mấy chục năm, trong thời kỳ tu tử tâm, mỗi phút đều chẳng rời cái niệm diệt tư tưởng, nên có thể hẹn ngày minh tâm kiến tánh được. Người tu đời nay, mới nhúng tay vào việc, đã muốn thành công liền, há đã dễ lại dễ quá ru?


Chỉn bởi những nghiệp tập từ vô thỉ nhiều như đầy cả vũ trụ, nếu không cần tu cho lâu xa, thì làm gì thâu tâm định được? Chính Ngài Dũng Tuyền làm việc tu như thế suốt 40 năm, ngài Hương Lâm tu 40 năm mới thành một kết quả v.v...Việc tu ấy, người xưa còn chẳng làm được dễ dàng thay;huống người bực trung hạ, đâu mau thành được? nên phải lập chí cho bền, hễ chướng hết rồi, thì tâm lực tập trung thuần thục, chừng đó, tự nhiên thành được pháp diệu quán.



THỜI KINH KHUYA 


ĐẠI PHẬT ĐẢNH, THỦ LĂNG NGHIÊM KINH THẦN CHÚ


Thích nghĩa "Thần chú của kinh Đại Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm".


Y theo ý kinh mà lập ra danh đề, vì nêu tên chỉ là "Pháp". Bằng đủ theo kinh đề, thì 19 chữ đều nêu lên cả Nhân và Pháp.


"Đại Phật đảnh" là tánh đủ 3 đức: "Thủ Lăng Nghiêm" là ngôi tu 3 nhân. Chừ đó về Đại Phật đảnh đều đủ 3 đức đó, thì "Đại" đủ 3 nghĩa : 1/ Pháp thân là Thể Đại (lớn), vì tâm tánh khắp giáp tròn đủ. 2/ Bát nhã là Tướng Đại (lớn), vì trí huệ suốt thấu tỏ soi. 3/ giải thoát là Dụng Đại, vì lan rộng ứng hiện không ngần ngại "Phật" đủ 3 nghĩa 1/ giác tự (giác ngộ lấy mình) thì biết tự tánh vẫn thanh tịnh, dứt hẳn những danh nghĩa còn đối đãi hai bên, tức là nghĩa Bát Nhã Đức 2/ Giác Tha (giác ngộ cho người), thì khiến cho chúng hữu tình được sáng suốt lòng dạ, tức là nghĩa Giải Thoát Đức 3/ giác mãn (với 2 điều giác ngộ ấy làm đã hoàn toàn), thì chứng được cái thể và tướng của "pháp giới tánh" là tánh Phật, mà ta với người đều đồng bực, tức là nghĩa Pháp Thân Đức "Đảnh" là đảnh đầu, cũng đủ có 3 nghĩa 1/ là nghĩa tối tôn, vì thể tướng của pháp thân rất quý, tức đức của pháp thân 2/ là nghĩa chẳng khá thấy, vì với cái "đảnh tột cao của Pháp thân, huệ nhãn, pháp nhãn hãy còn chẳng thấy được, duy có Phật nhãn mới thấy tận nơi, tức đức của Bát nhã. 3/ Là nghĩa phóng quang hiện hoá Phật, vì tại nơi đảnh đầu của Phật Thích Ca phóng hào quang ra, trong hào quang có đức hoá Phật nói thần chú Lăng Nghiêm, tức đức của giải thoát. Nói bằng cách dón tắt : Đại tức là pháp thân; Phật tức là bát nhã; Đảnh tức là giải thoát. Nghĩa là : Pháp thân là cái lý tánh thanh tịnh chu viên, vốn sẵn đủ Trí bát nhã là vắng lặng mà tỏ soi. Trí đó vẫn chiếu ngay vào Lý pháp thân, chứ hẳn không có trí nào riêng ngoài lý mà có thể chiếu được lý ấy, cũng không có cái lý nào riêng ngoài Trí mà bị trí nó chiếu, Lý Trí vẫn như như, phi đồng nhau, cũng phi dị nhau, vừa tròn sạch, vừa tròn tột, tức là đại giải thoát. Thế nên "Đại Phật đảnh" là cái tánh kho mầu nhiệm để chứa 3 đức kia. Chư Phật chính đã giác ngộ tánh ấy, còn chúng sanh chính đương mê muội tánh ấy; mặc dầu đương mê, chứ nó cũng có tánh sẵn đủ ấy đồng với chư Phật. Bởi lẽ ấy, nên chúng sanh y nơi tánh đức sẵn đủ đó, có thể phát triển ra cái tu đức Thủ Lăng Nghiêm, ngõ hầu khá huờn nguyên lại tự chứng lấy tánh đức ấy. "Thủ Lăng Nghiêm" là tên một "tam muội" chính một pháp đứngđầu cả một trăm lẽ tám (108) pháp tam mụội mà là một cái tên chung của tất cả pháp đại định.


Tiếng Phạm là "Suramgam" theo Cựu dịch, thì tiếng Việt đọc là "Thủ Lăng Nghiêm" Tân dịch, thì tiếng Việt đọc là "Thủ Lăng Gam". Thủ Lăng Nghiêm, đổi nghĩa là "tất cả việc ráo rốt bền chắc", rằng "tất cả sự" ấy, tức là cái của sáu phàm bốn thánh giữa mười cõi, chữ sự tức là chữ pháp. Với pháp của lục phàm, tứ Thánh trong thập giới, chỉ dùng hai chữ "Sắc Tâm" bao quát được hết thảy. Sắc, tức là khí giới và căn thân; tâm, tức là 8 thức tâm vương, tâm sở.


Đối với sắc tâm, nhơn tuỳ theo mỗi căn cơ, mà Phật hoặc mở ra hoặc họp lại. Phân làm bốn hạng :


Vì những kẻ mê Tâm nhiều, mê Sắc ít, Phật nói pháp ngũ ấm, đó là đối với Tâm thì mở, với Sắc thì hiệp. vì mấy người mê sắc phần nhiều, mê Tâm phần ít, Phật nói pháp lục nhập và 12 xứ. Đó là mở Sắc ra, hiệp tâm lại. chúng nào với Tâm sắc đều mê cân nhau, thì vì họ mà Phật thuyết ra pháp 18 giới, thế là Tâm sắc đều mở ra cả.


Các đứng nào với Tâm sắc đều chẳng mê, thì Thế Tôn vì nói ngay 2 chữ Sắc Tâm ra, là họ tức thời rõ liền. Ba hạng người trước, là căn cơ đều chậm chạp tối tăm; hạng thứ tư là những người có căn tánh nhanh chóng sáng suốt. Người mà mê tâm thì ngu nơi tâm, kẻ nào mê sắc thì ưa chấp cảnh. Bởi thế, sắc và tâm của Thánh phàm 10 giới, tức là 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ và 18 giới, mà ấm, nhập, xứ, giới tức là Sắc tâm của thánh phàm 10 giới, gọi chung là "tất cả sự", cũng tên là "hết thảy pháp".


Người tu nếu có thể quán xét ấm, nhập, xứ, giới mỗi mỗi đều là tại đâu sanh, với diệt thì cũng tại xứ nào diệt ở xứ nấy (như nhãn thức thì sanh tại nơi nhãn căn, mà diệt cũng tại nơi nhãn căn; cả đến các căn thức kia cũng tại đâu vẫn sanh diệt đó như thế), người nào tu quán được như thế, tức tỏ chứng Thủ Lăng Nghiêm tam muội bằng "Chân đế", thì đắc cái "Liễu nhơn huệ tánh" hiển hiện ra; người mà quán xét ấm, nhập, xứ, giới mỗi mỗi cái nào cũng đều là xứng nhau với cái tướng huyễn hoá hư vọng, tu quán được như thế tức là chứng rõ Thủ Lăng Nghiêm tam muội bằng "Tục đế" thì đắc cái "duyên nhân thiện tánh" nó hiển ra; người nào tu quán các pháp; ấm, nhập, xứ và giới, nhận thấy cái tánh của các pháp ấy thật là cái thể sáng của diệu giác, người ấy liền rõ ngay Thủ Lăng Nghiêm tam muội bằng "Trung đế", đặng cái "chánh nhân lý tánh" tỏ bày ra.


Nói lên một Thủ Lăng Nghiêm tam muội, tức là ba đế, nói ba đế tức gồm một Thủ Lăng Nghiêm; mà ba với một chẳng phải là hai. Song tu tam đế tam muội ấy, toàn do nơi tánh Đại Phật đảnh để khởi sự, ngay nơi cái tánh Phật đảnh ấy. Thế là chính chỗ bảo : "Từ tánh dấy tu, mà không tu chi khác hơn là tu tại tánh ấy, vì tánh và tu chẳng phải hai riêng nhau."


Chính rõ trì chú : Mỗi chữ đều do nơi tự tâm để đưa ra, mỗi câu lại cũng từ nơi tự tâm để rút vào,là chỗ bảo rằng đâu chẳng do nơi "pháp giới tánh" để lưu thông ra, rồi phải chăng chẳng trở lại về nơi "pháp giới tánh" thật thế. Đã là Nhứt thiết sự gì cũng đều do ở tánh Đại Phật đảnh để làm thể, nên mỗi mỗi sự pháp đều nói rốt ráo bền chắc cả.


Song, chừ với cả trong thần chú, phân ra làm 5 hội, mỗi hội đều có danh : Hội thứ nhất là " Tát đác đa bát đác lam"


Hội thứ nhì là "Tác đác tha bát lẫtá tất đa"
Hội thứ ba là "Tô ba la noa ma ha bát thu bác đác dạ".
Hội thứ tư là "Tát đát đa bát đác ra"
Hội thứ năm là "Tất đác đa bát đác ra"


Hoặc nhập 5 hội làm một, kêu chung một tên là " Phật đảnh quang minh ma ha tát đác đa bát đác ra vô thượng thần chú". Đối với tất cả nhơn bí mật, nghĩa hiển nhiên, thì nội trong đầu đề Kinh, nó gom trùm trọn vẹn hết thảy. Rằng "Hào quang đảnh Phật" tức là trên đảnh đầu của đức Thích Ca phóng hào quang ra, trong ánh sáng có đức hoá Phật nói thần chú của Kinh này.


"ma ha" dịch nghĩa là lớn : đủ 3 nghĩa lớn như trên đã nói, tức là "Đức pháp thân"; "tát đác đa" dịch nghĩa là trắng: cái tướng nó khác hẳn các màu nhuôm trí tánh nó đủ sạch sẽ trọn vẹn, tức là "Đức Bát Nhã" "Bát đác ra" dịch nghĩa là Lọng tàn : dùng che mắt muôn loài, tức là "Đức giải thoát". "Vô thượng" rất sáng tột cao, đứng sựng chót vót, không chi ngang sánh. Với uy linh không thể lường xét được, với cảm ứng cũng khó nghĩ bàn, nên gọi là "Thần chú".


"Tàn lọng trắng lớn" toàn thể nó là "Chủng trí" chư Phật, mà là "diệu tánh" của chúng sanh, chủng trí là quả, diệu tánh là nhơn, mà nhơn trùm quả suốt, vừa đủ lý tánh, vừa đủ giáo nghĩa. Nên thần chú này : người tụng đến, sẽ trừ hết nghiệp chướng từ đời trước; người trì đến, khá chứng quả Phật.


Lại nữa, thần chú đây, cũng có tên là Chú tâm, cũng có tên là Tâm chú, cũng có tên là Như lai đảnh, bởi vì thần chú đây là pháp sở thuyết của đức Hoá Phật hiện ra trong hào quang trên đảnh đầu của đức Thích Ca : hoá Phật tức là biểu tướng của như lai tạng tâm.


Song, y nơi kinh, để lập danh đề, đó là nghĩa của hiển giáo; còn y theo chủ để lập danh đề, đó là nghĩa của Mật giáo. Mà đồng thời vừa hiển vừa mật lẫn tròn chẳng phải riêng làm hai, thế nên đều có thể lập danh đề bằng cả Mật lẫn Hiển được nốt.


Chỉn bởi chúng sanh tự mê muội quên lửng Như Lai tạng tâm là tánh Phật của mình đi, nên đức Hoá Phật trên đảnh của đức Thế Tôn ngài nói thần chú ra vậy là, chính muốn cho chúng sanh giác ngộ ngay nơi Như Lai Tạng của mình vốn sẵn đủ. Chú đã Phật tâm, nên với công dụng của nó, người ta khó nghĩ suy gì được ! đối với chú, người tu hành phải cần trì tụng mới đặng. Kinh nói "Nguyên các đức Như Lai, ở mười phương, nhơn nơi chú tâm đáy, mà đắc đạo quả Phật".


Kinh lại nói "các người là bực Hữu học chưa hết cái khổ sanh tử luân hồi, thì các người nên dấy cái tâm chí thành để tu tụng chú tâm đặng chừng lấy quả Vô học là A La Hán. Nếu chẳng tu trì chú này, thì không thế nào ngồi chốn đạo tràng mà khiến cho thân tâm xa tránh được các điều Ma chướng làm hại được".


"Dón nghĩa" là với Chú, không thể giải nghĩa ra đặng, vì đã là ý nghĩa vô cùng, lại không nhứt định, bởi người tu tâm thành đến đâu, cầu nguyện đến gì, là được đến đó, nên chẳng dịch ra được là vậy. Nhưng chỉ dón theo nghĩa của Chú, xin bày ra ít lời sơ lược thôi.


Họp cả toàn văn của hai thời khoá tụng, phân làm ba tiết :


Tiết thứ nhứt, thời sớm, thời chiều, đều từ bắt đầu cho đến niệm Phật và bồ tát, đó là chính việc tu pháp khoá tụng. Tiết thứ nhì, tức là văn hồi hướng của hai thời sớm và chiều, với văn tam quy y, là phần hồi hướng bằng kết cuộc phổ độ chúng sanh.


Tiết thứ ba, tức là hai thời chúc tán sóc, vọng, là để chúc cầu các vị Thần Hộ pháp, an tăng quốc thái, dân khương. Âm siêu, dương thới.


NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HI THƯỢNG PHT B TÁT

 

 

Kính ly Pht và b tát trên hi Th Lăng Nghiêm


Đây là kính vì ngôi "T
ng tướng Tam Bo" s là, vi tt c vic Pht đu ly "Tam Bo" làm ch quy y, nên phi xướng lên trước nht.


Lăng Nghiêm t
c là ngôi pháp bo Pht tc là ngôi Pht bo; B tát tc là ngôi tăng bo; gia Tam Bo, các Thánh phàm đu nhóm hp là Hi: Mt hi như thế : Pht là Giáo Ch, đ gm c chư Pht trong hi đng cùng phóng quang quán chiếu vào đnh ln nhau. B tát là bn (đi vi ch) đ chung gm c các Thánh 3 tha ti hi và, các Thánh t 10 phương qua li.


Chính là g
i : ch bn hi đng, cơ giáo phù hip, đy là mt trường hp Tng tướng mà là "T tánh Tam Bo" vy.


T
câu "Diu trm tng trì bt đng tôn" đến câu "thước ca ra tâm vô đng chuyn" c 18 câu k y, là li k tán đi kinh Lăng Nghiêm, nhơn vì A Nan giác ng ri, phát th ngyn y đ khen ngi Pht.


B
i A Nan t ra b sa ngã v cái nn ca nàng Ma Đăng Già..... Đc Như Lai phóng quang thuyết thn chú, sai ngài Văn Thù đem thn chú đến cu h A Nan.....khi A Nan v đến ch Pht, ly khóc và cu hi v giáo pháp.... "ti sơ phương tin" là ông có ý như mun lên đường v nhà mong được đo lc hoàn toàn, thì, ct phi biết trước cái căn bn ca sanh t đã. Nên chi Pht bo rng : S dĩ b sanh t tiếp tc mãi, là đu bi tt c chúng sanh chng t biết cái chân tâm hng còn, tánh th nó vn sáng sch, li dùng lm ly cái vng tưởng làm tâm, thành th c lăn tròn theo sanh t, vì cái tưởng y không phi tâm !


Cái l
mà quên chân tâm, rượt theo vng tưởng, là đu bi tâm, mc gây nên ti li, nghĩa là bi mt thy lòng đng, mi có điu ân ái, do ân ái, mi có sanh t; nên Pht dùng 7 ch đ gn hi cái Tâm, là khiến cho biết rng : đi vi mi ch, Tâm và Mc không nht đnh mt ch nào c.


Khai th
v hai th căn bn 1/ vô th sanh t căn bn là vng tâm 2/ vô th b đ Niết bàn là chân tâm thì Pht dy rng : vng tâm không có tánh riêng ca nó : còn b đ tâm thì nguyên lai vân chân tht. Các pháp mà được phát sanh, là do nơi tâm A li da biến hin.


V
i căn 10 phen ch rõ cái tánh thy, thì, Pht khiến cho biết rng : chm đến đâu, ch nào chăng chng đu là chân c.


L
i, hi v các văn : 5 m, 6 nhp, 12 x, 18 gii, phi nhơn duyên, phi t nhiên, thì Pht nói rõ v đo lý trung bình, là tánh Như Lai Tng.


R
t sau, tiêu dung luôn đa, thu, ho, phong đu là cái th thanh tnh sn sàng, cái dng khp giáp pháp gii. Nghĩa là : trong vi thân tâm, ngoài vi vũ tr, ch mt đi mà thành pháp gii, phi thiếu, gm 7 đi mà thành pháp gii, cũng phi dư; vì đi vi vn pháp, thì Như Lai tng tánh nó vn nht như, mà dù tuỳ theo nghip tnh hay nhim ca chúng sanh, tánh nó phát hin ra t h có thiên sai vn bit, thành th có nhng cái danh tướng ca tht đi đó, là ch vì vi th dng xưng hô mà có khác vy thôi.


Chân không là cái th
ca "Nht Như", nên vi tht đi, đu gi là chân không; còn tht đi là cái dng theo nghip tnh hay nhim nên nói "Tng tánh, sc tướng tc là chân không; tng tánh chân không cũng tc chân sc". Nhn đến nói "tánh biết rõ hay, là biết hay đu do nơi tánh mình; biết sáng cũng chân thc, là thc nó tuy là li vì "giác minh" nhưng th nó vn thit chơn, vì l diu giác trm nhiên, th dng chng hai, nên điu được nương nhau ln nói.


B
y gi, A Nan được cái sáng sut không còn chi ngăn ngi, vì thân tâm đu rng rang, nên thy mười phương trng không, như xem thy lá cây hay vt gì đương cm trong bàn tay, nghĩa là thy rng : tt c nhng vt s hu gia cõi đi, đu nguyên là cái giác tâm diu minh đng mt c th như nhau. Oâng t chng biết được cái bn tâm diu giác ca ông rt rõ ràng. Đi vi thâm ân ca Pht, vì quá ư cm đng, nên A nan chính nơi ming mình tht li nói bài k đ tán thán Pht bng nguyn ln rng :


Di
u trm tng trì bt đng tôn
Th
Lăng Nghiêm vương thế hy hu.


Đ
c "Diu Trm Tng Trì Bt Đng Tôn"; Pháp "Th Lăng Nghiêm ln nht", vì thế gian ít có.


Câu th
nht là khen c ba thân, Pht, đy là người chng qu năng thuyết; câu th hai : bn ch "Th Lăng Nghiêm vương" và pháp s thuyết; ba ch "thế hy hu" đy là khen chung c Nhơn, Pháp đu ít có.


Sau khi đã nghe r
i được ba cun trước kinh Th Lăng Nghiêm, ông A Nan mi biết ch s thuyết ca Pht, lý nó cc dim, lý y không sai khác mt my gia tâm sn có ca mình (A Nan) vi chúng sanh, nên chính nơi ming ông tht hai câu y ra đ tán thán Nhơn hy hu là Pht, Pháp ít có là Lăng Nghiêm.


Di
u Trm : Trí thanh tnh đã viên mãn, th nó thì vng lng, dng thì không ngn ngi; đó là tán thán v nghĩa "Báo thân Pht".


T
ng trì : Tánh Như Lai Tng nó tuỳ theo duyên nhim hay tnh ca thc biến, đ ph ng ra tht đi, li ích không b sót mt vt nào; đó là tán thán v nghĩa "ng thân hoá thân Pht"


B
t đng: Tâm tánh nó thường vng lng, vì vô th vô chung; đó là khen ngi v nghĩa "pháp thân Pht"


L
i, c ba thân đu diu trm (mu trong), vì ba mà tc là mt. C ba thân đu là tng trì (gom gi), vì mt mà tc là ba. C ba thân đu là bt đng (chng đng), vì ba và mt chng phi là hai riêng gì.


L
i, sách Văn Cú nói : Diu trm là nghĩa tuỳ duyên mà thường chng biến; Tng trì là nghĩa chng biến mà thường tuỳ duyên ; bt đng là nghĩa theo duyên chng đi, bt biến tuỳ duyên, vì không hai th. Kinh đ đ 20 ch


i Pht đnh Như Lai mt nhơn tu chng liu nghĩa chư B tát vn hnh Th Lăng Nghiêm kinh".


Nh
ư lai mt nhơn tu chng liu nghĩa gi là Diu trm chư b tát vn hng Th Lăng Nghiêm gi "Tng trì" Đi Pht đnh gi là "Bt đng" đu được nói mt mà tc là ba, nói ba gm mt, vì 3 vi 1 chng phi là 2.


Rút l
i đ nói : "Diu trm tng trì bt đng" nghĩa nó bao gm c toàn b Lăng Nghiêm kinh; cũng thâu gm c Thánh giáo ca mt đi Pht thuyết, cho đến tông ch mu nhim ca tt c chư Pht ba đi, mười phương, sáu ch y nó gom thâu hết không sót mt ch nào. Đ như các li s ca sách Pht đnh văn cú đã gii ai có cn hiu rng, phi tìm sách y đ xét....


Tôn : Cao nh
t gia bn bc Thánh, vì c ba thân đu là vô thượng tôn cc.


Th
Lăng Nghiêm vương :Tên chung ca pháp đi đnh, vì đnh này nó gm thâu hết các pháp tam mui (đnh) khác; li tên là "Vương tam mui"


Nay l
y ngũ m, lc nhp, thp nh x, thp bát gii, c tht đi làm tt c s; các s y đu là cnh s hin ca tâm. Chính là bo : k nào quên cái "Như lai tng tâm" thì nó biến thành ra các s : tht đi, thp bát gii, thp nh x, lc nhp, ngũ m, tp nhim sanh dit ca chúng sanh; trái li, k nào nh được cái "tâm Như Lai Tng" thì các s (m, nhp, x...) kia đu tr thành li bng viên diu thanh tnh ca chư Pht, như ngũ m thành ngũ phn thân hương, lc nhp thành lc thn thông....tc là tâm tnh đ tnh. Nghĩa là nht thế s thanh tnh viên diu..


Th
ế nên biết rng : các s ngũ m, lc nhp.....đâu chng là pháp được sanh bng nhơn duyên, cũng như đ điu kin mi phát hin. Đã do nhiu nhơn duyên mi phát sanh ra các pháp là m, nhp.....các s , thì các s t như hoa đóm gia hư không, vì cái th nó vn không, bi nguyên nó là Như lai tng tâm, mà tng tâm y đương th nó là Diu trm tng trì bt đng.


Th
ế thì, nói nht thế s đu là tng tâm, nên bo rng "cu cánh". Mi s mà là Diu trm tng trì bt đng, nên bo rng "kiên c". Th Lăng Nghiêm, dch là : Nht thế s cu cánh kiên c. Nghĩa là sut thu ngun đây các pháp, mà, không đng không hoi, tht thế. Người mà tu pháp quán y, thi, các pháp : Tam đ, Tam quán, Tam đc, Tam thân, đâu chng đu nơi pháp Th Lăng Nghiêm tam mui này.


Hy h
u : ít có. Thế : thế gian ca cu gii, tt c Thánh phàm trong chín cõi đu chưa chng ng được "tng tâm".


Ch
ưa rõ được Pht đc, nên chưa có th nói được pháp tam mui y, cũng không th nghe ni được pháp tam mui y nên nói "thế hy hu" nghĩa là c chín thế gian ít có người nói pháp y. Nay ông A Nan đã nghe và đã chng ng được, nên thut rõ li tán thán đ cm ơn sâu ca Pht.


Tiêu ngã
c kiếp diên đo tưởng
b
t lch tăng kỳ hoch pháp thân :


D
t tưởng đo điên t vn kiếp, chng tri nhiu kiếp chng pháp thân.


Đ
y là ông k bày ch đã chng ng. Kiếp, tiếng phn là kalpa, dch là thi phn, nghĩa là năm tháng ngày gi rt lâu dai. Ưùc, c có 4 s 1/ mười vn; 2/ trăm vn ; 3/nghìn vn ; 4/ muôn vn. Nói "tưởng điên đo t vn kiếp" : sau khi chng ng ròi, mi nhn thy t vô th đến nay nhng vng tưởng mê tình. Nương nơi vng tưởng y, đ kiến thiết ra nhng kh cnh sanh t gia chín thế gii, mà s chp ca chúng sanh trong ca gii không ngoài các pháp nhơn duyên t nhiên hoà hip, bt hoà hp, hu, vô, đon, thường, mi mi đu là pháp sanh dit hý lun, tht vy. A Nan đã biết được cái tánh : Tuỳ duyên bt biến, bt biến tuỳ duyên, nêu bao điu hý lun vng tưởng lin tiêu tan, mà vi pháp thân bn hu mi thâu hoch li đng. A tăng kỳ, tiếng phn là Asrinkhya, dch : vô s ; B tát mun thành Pht, phi tri qua s năm bng tam A tăng kỳ kiếp, đ tu đ phước đc trí hu, gây các tướng tt, mi kết tinh pháp thân bng "Ngũ phn hương" (qu Pht bên tng giáo).....nhn đến được "pháp thân cu cánh thanh tnh" (qu Pht (diu giác) bên (viên giáo). Ơû đây, A Nan lin chng ng được tng tánh trong ngày gi chng tri qua kiếp s tăng kỳ, mà đã đc pháp thân. Đã rng pháp thân, tt phi đ 2 đc na là bát nhã và gii thoát, thì pháp thân đây chng đng nhau vi "t pháp thân" bên bit giáo nói (T : dùng nghĩa theo loi như T Vương, T Phong). Còn như mun ch rõ ra, thì, ch mà điên đo vng tưởng tiêu tan hết đó là đc gii thoátl cái trí hay làm cho điên tưởng tiêu tan đó là đc bát nhã.


Song, khi chúng ta còn mê mu
i, vi va đc y không phi ta b gim bt, mà ch là ta chng giác ng đó thôi; nghĩa là như b quên mt, nên ch gi là "Lý tc Pht".


Ngũ tr
hoc – tc là ba hoc vng tưởng. C kiến hoc ca tam gii, hp làm mt Tr; c tư hoc ca ba gii, phân làm tam Tr, gi là t tr đa phin não, thế là vng hoc trong tam gii. Người tu đã chng qu La Hán, ra khi lp vng hoc ca tam gii, còn có nh phin não hoc là Trn sa và vô minh, hp làm mt Tr, chung vi trên cng là ngũ tr. Phá hết ngũ tr tc là chng cc qu Pht bên viên giáo; thô cu là kiến hoc, tư hoc, đon hết kiến hoc, thì chng bc Sơ tín, đon hết tư hoc chng bc tht tín đu ca viên giáo. Xem biu ngũ tr đa :


Phi
n não gc r nó hay ny ra phin não ngn nhánh, nên gi là Tr đa. Gc nó làm ch cho ngn nương, nên nói là Tr ; gc hay ny ngn, nên gi là Đa. Năng sanh là Đa, khiến cho s sanh được thành lp, nên gi là Tr.


T
trong mê mà giác ng, mi biết có công hiu, thì gi là Hoch cũng như đc hay chng, mà có năm đa v chng đng nhau : 1/ Vi cái trí ch mi đ hiu được pháp thân, thì gi là Danh T hoch ; 2/ T ch đã hiu biết ri khi s tu nim, dp hết ngũ tr hoc, gi là Quán hnh hoch; 3/ tha h hai thô cu rng hết trước gi là Tương t hoch; 4/ phá mt phn vô minh, chng mt phn pháp thân, trong thi đương phá, pháp thân hoàn toàn hin hin, gi là Cu cánh hoch.


A Nan là b
c trong n cái hnh B tát, ngoài bày cái tưóng Thinh Văn, thì cái ch gc tích ca ông là "Bí mt hoch" hng phàm không th nhn xét được ! nay căn c nơi danh tích là Hin hin hoch ca ông, thì, ông v bc Sơ tín bến Viên giáo, đa v ngang hàng vi bc Sơ qu thánh nhơn bên Tng giáo.


Nguy
n kim đc qu thành bo vương,
Hu
n đ như th hng sa chúng
T
ương th thâm tâm phng trn sát,
Th
tc danh vi báo Pht ân
ph
c thnh Thế Tôn vi chng minh,
ngũ tr
ược ác thế th tiên nhp,
nh
ư nht chúng sanh v thành Pht
chung b
t y th th Nê Hoàn


5/Nguy
n đc ngay qu Diu giác (Pht) lin thành ngôi bu vương vô thượng gia mười phương; 6/ tr li đây đ đ chúng sanh s hng sa trong chín cõi; 7/ đem cái tâm nguyn "Cu Pht qu, đ chúng sanh" đây th chư Pht trong cõi s vi trn; 8/ được thế mi là đn ơn sâu ca Pht đ tôi; 9/ li cu đc Thế Tôn chng minh cho li nguyn ca tôi; 10/ Vi đi d ngũ trược th vào trước, đ đ tn chúng cang cường khó dy; 11/ Như mt chúng sanh nào chưa được thành Pht; 12/ vn không b nó, vi thành Pht riêng đ dit đ mình.


B
n câu trên là nghĩa ca pháp bn th nguyn rng ln. Bài k dưới là nghĩa th nguyn tăng thượng. Ch Bu là nghĩa tôn quý. Ch Vương là nghĩa t ti. Là nói : Pht đã sch hết ba hoc [1] vn không hai t [2] đa v là vô thượng, nên gi là Tôn Quý; pháp thân giáp tròn, tt cõi hư không, hoá đ vô cùng vô ngi, nên gi là T ti.


Sách Văn Cú nói : Nguy
n Kim đc thành bu vương, là mun chng Đo đế, Dit đế ca mười pháp gii, chính gi "Pht đo vô thượng th nguyn thành" và gm thâu "pháp môn vô lượng th nguyn hc". Hườn đ như th hng sa chúng, là mun dt Kh đế, Tp đế ca mười pháp gii, chính gi "Chúng sanh vô biên th nguyn đ", kiêm luôn "phin não vô tn th nguyn đon".


"Thâm tâm" là n
ương nơi Vô tác t đế ca "Viên giáo", đ phát khi ra T Hong th nguyn. Kế đó là li th nguyn tăng thượng. Hai câu : Phc thnh Thế Tôn vi chng minh, ngũ trược ác thế th tiên nhp, là dõng mãnh tăng thượng, s là vi chúng sanh đi ngũ trược cang cường lm nên khó dy bo. Nay ông A Nan đã đc cái tng tánh bình đng, phát được cái tâm đi bi, đi vi chúng y, như m thương con, nên mi có th cp cu chúng đng. Hai câu : Như nht chúng sanh v thành Pht, chung bt ư th th nê hoàn, là hong ngh tăng thượng, bi đã đt đến tng tánh; nó dc thu ba đi, ngang giáp mười phương, nên vi vic hoá đ, không b sót mt chúng sanh, dù tt hết qua nhiu đi sau, vi hnh kh khó làm đến đâu, cũng không chán s.


Nguy
n vì chúng sanh có kh, B tát có bi, bi bi cùng đng th vi kh : T như cái tánh thiêng liêng nó quan thiết nhau gia m con; con có kh, m t bi cu. Thế nên chúng sanh có cm, lòng Thánh phi ng.


"Nê Hoàn" cũng g
i Niết bàn, dch là Dit đ; dit phin não, đ sanh t, tc là chng đng pháp thân diu tánh, là tâm cnh không còn phin não sanh t na.


Đ
i hùng đi lc đi t bi
hy cánh th
m tr vi tết hoc
Linh ngã t
o đăng vô thượng giác
ư thp phương gii to đo tràng


13. Đ
c Đi hùng Đi lc đi t bi ; 14. Mong thêm xét dt lm nh nhít ; 15.Khiến tôi sm lên Pht không trên ; 16. Vi mười phương cõi ngi đo tràng.


Đây là l
i Pht gia h, đ mong dt nhng vng hoc quá vi tế, mà kỳ cho được chng lên bc tt cao thượng.


Th
theo chng lên ngôi Vô thượng làm thy c chín cõi, nên nói là Đi Hùng. Có cái Trí Tu phá tan được nghip chướng mê hoc ca phin não nơi ta và chúng, nên nói là Đi lc. Cu hết cái kh sanh t ca chín cõi, cho chúng đu được cái vui Niết bàn ca cõi Pht, nên nói là Đi t bi,


Sách văn cú nói : Đ
i lc là đc tt "Diu trm" (tinh thn mnh sáng). Đi t bi là đc tt "Tng trì" (ngh lc gom gi). Đi hùng là đc tt "Bt đng" (uy nghi t ti). Li nói : Chng được cái lý th "Diu trm tng trì bt đng" gi là "Đi Hùng"; đ cái trí chiếu "Diu trm tng trì bt đng" gi là "Đi lc" dy cái diu dng "Diu trm tng trì bt đng" gi là "Đi t bi". Ln nhau đ nghĩ xét, là cái c : Ba và Mt chng phi là hai l.


"Hy cánh th
m tr vi tế hoc", Hy : trông, cu. Vi tế hoc : chính là cái vô minh ca bc đã ra ngoài tam gii. Kinh nói : "Ngươi (A Nan) nay đã đc qu Thánh Tu đà hoàn, đã dt dit ri đu mê hoc bng nhn thy sai lm gia thế gian chúng sanh trong tam gii". Chính là bài k trước kia đã nói : "Tiêu ngã c kiếp điên đo tưởng".


Kinh l
i nói : "Song, bi chưa biết trong Căn tánh nó cha cht cái thói quen gi di t vô th đến nay, vi cái thói quen y, ct phi do công tu mi đon tr được nó". Cái "thói quen" đó là ch cho s lo nghĩ lm sai (tư hoc) ca chúng sanh trong tam gii.


Kinh l
i nói : "phương chi trong đi nay đây, vi mõi bn giai đon : Sanh, Tr, D, dit ca mi ý nim, chia ch mi mi con s ......", nhng ý nim sanh dit đó, là ch cho cái vng hoc riêng ca nhng bc đã ra ngoài tam gii, mà chính đây bo là "vi tế hoc".


Vô th
ượng giác tc là ráo rt qu Pht Diu giác, nếu người tu Pht đã đon hết cái mê hoc vi tế thì lin tiến lên qu Diu giác, chính rng ba giác đã sáng sut cc đim tc là Như Lai.


M
ười phương cõi cn đ ngang và dc đ lun. Ngang tc là Đông, Tây, Nam, Bc, bn góc và trên, dưới; như đi vi phương đông : Đ xét cõi hư không, thy nó vô cùng vô tn, mà thế gii cũng không tt không hết. Thế thì mi phương đu như vy c. Bàn v b dc, thì vi gia thế gii nhiu vô tn, thế gii nào cũng đ bn quc đ. Đi vi chúng sanh hoc căn cơ nào đon hoc chng chơn đã viên mãn bình đng, thanh tnh, thì Pht ngi nơi đo tràng cõi tch quang, đ th hin cho chúng y được thy "pháp thân Pht". Hoc có trình đ tu đon đã được bình đng t li li tha, thì Pht ngi nơi đo tràng cõi tht báo, đ th hin cho h thy được " Báo thân Pht". Hoc có hng va tu chng bc Nh tha, thì Pht ngi nơi Đo tràng gia phương tin đ, đ th hin cho chúng thy được "ng thân Pht". Hoc có hng người tu bng cách trước tướng chán kh b kh, thì Pht ngi nơi Đo Tràng đng cư đ, đ cho chúng y được thy thân Pht bng cách "biến hoá'. Song, tng tánh ca Pht là tròn bc cõi hư không; chính ch bo rng : đến khi mà mt người thành Pht, đy dy pháp gii đu là y báo chánh báo ca mt đc Pht chính là đây vy.


Thu
n nhã đa tánh kh tiêu vong
Th
ước ca la tâm vô đng chuyn


17/Tánh Thu
n Nhã đa có th mt


18/ Tâm Th
ước ca la không h nao.


Đây là t
d : Vi cái tâm nguyn không lui mt. Thun nhã đa là : cái hư không. Thước Ca la : bn chc. Nghĩa là nhng vt cht như đa cu còn có ngày tiêu dit, vì hu hình hu hoi ; ch nên không là vô tướng, thì bao gi tiêu mt được, vì nó là th tánh bt sanh bt dit. Thế mà bo rng : "Nó có th tiêu vong" đó, là ý nghĩa rt sâu đ t li vi cái "tâm nguyn" rt kiên c, rt ráo không h thi chuyn.


H
i : Kinh nói : Vi cái hư không, phi ai có th làm gì nó được, nên nó không hoi dit. Li nói : "phát minh được cái chơn qui ngươn (chơn tâm) ri, thì hư không lin tiêu mt". Thế vi hai nghĩa trên nói sao cho xuôi ?


Đáp : B
ng nói pháp thế tc đế, thì vi "hư không" chng đó th dit nó đng, nên trong kinh sách Pht, mt phn cũng dùng cái hư không đ t d cái chân tánh, vì là nghĩa bt sanh bt dit bi vô hình vô đng; còn c nơi pháp Đ nht nghĩa đế thì cái không nó nguyên bi nơi vô minh làm mê mt cái Chơn không mà biến đi làm ra cái Ngoan không. Nếu phá được vô minh ri, thì toàn th nó chính là Như lai tng tâm, ngay nơi Ngoan không mà làm Chơn không, gia hư không c đi đa cũng là cái Diu hu. Kinh li nói : Cái hư không sanh trong tâm đi giác, t như mt cc bt ni gia bin c, bt tan cũng như cái "không vn chng có, hư không đã chng có, hung đâu còn tam gii. Chính rng nghĩa trên đây, kêu bng hư không (Thun Nhã Đa) hu tn, ngã nguyn (nguyn tâm) vô cùng (Thước ca la : kiên c).


Nam mô Th
ường tr thp phương Pht
Nam mô Th
ường tr thp phương pháp
Nam mô Th
ường tr thp phương Tăng.


Cúi l
y ngôi Pht bo thường đi nơi mười phương.
Cúi l
y ngôi Pháp bo thường đi nơi mười phương.
Cúi l
y ngôi Tăng bo thường đi nơi mười phương.


Đ
y là ly chung tt c các ngôi Tam bo hin tr trong thp phương thế gii. Vi ba triu trên s thy gii thích nơi văn sám hi sau.


Nam mô Thích Ca M
ưu Ni Pht
Nam mô Ph
t đnh th lăng nghiêm
Nam mô Quán th
ế Âm B tát.


Kính l
y ngôi Pht là đc Thích Ca Mâu Ni.
Kính l
y ngôi Pháp là Pht đnh Th Lăng Nghiêm
Kính l
y ngôi Tăng là đc Quán Thế âm B tát và Ngài Kim Cang Tng B Tát.


Đây là l
y riêng v Ngôi Tam Bo ca Kinh Lăng Nghiêm; Thích Ca Giáo Ch là "Pht bo"; Lăng Nghiêm kinh chú là "Pháp bo"; hai v B tát thuc "Tăng bo". Thích Ca (S gii rõ văn Đi sám hi là Hng danh bu sám. Quán Thế Âm : đích là vi Kinh này v chánh tông kén chn "nhĩ căn viên thông" vì B tát Ngài bt đu t nơi nhĩ căn đi sâu vào mà đc qu viên thông. Đc Văn Thù chm ly nhĩ căn, vì nó rt thích hp vi căn cơ ca thính gi thế gii ta bà này. Nên vn tt rng : "Th phương chơn giáo th, thanh tnh ti âm văn"; phương đây thit giáo th, trong sch tiếng nghe. Nghĩa là vi th lãnh giáo đúng chơn tht ca chúng nhơn thế gii ta bà đy, được thanh tnh nht là tai nghe ca thính gi đi vi tiếng nói ca đng thuyết pháp.


L
i bi Nhĩ căn (thính giác) nó đ c ba cái th chơn tht là : Viên thông, và Thường. Kinh nói "D như người ch yên lng, mười phương đu có k đánh trng, đng thi cũng đu nghe được c". Đó là Viên chơn tht. "Cách vách nghe tiếng vang, xa gn cũng nghe được". Đó là Thông chơn tht "Vi lúc không tiếng đng, tánh nghe đã chng dit; vi khi có tiếng vang; thính giác cũng phi sanh" đó là thường chơn tht.


V
y, người tu Pht : Chính khi nghe, ct ch nghe nơi ngoài cnh, vì tiếng bên ngoài là thuc v trn; li cũng đng nghe bên trong, vì cái đng cm bên trong lòng là thuc v thc. Bi nếu nghe nơi trn thì b nhim ô, còn nghe nơi thc thì b phân bit, vì thc cùng trn đu phi t tánh. Nay ch nghe mà thôi, nghĩa là cái nghe ch nghe ly t tánh ca nó. Đã được quày cái nghe đ nghe li t tánh, là đi ngược dòng mê vng ca sanh t kh hi, đ tiến vào dòng giác. Chơn ca pháp tánh linh nguyên, nghĩa là : "mt cái tướng đng tướng tnh, hết cái nghe bng có nghe, không cái biết rng có biết, dit cái không bng không suông" (bi cái không y nó còn đi vi cái có), mà đc cái cnh gii "tch dit" hin tin, lin siêu vit lên trên cái tri thc ca lc phàm thế gian, và tri giác ca tam tha xut thế gian; vì tri thc ca thế gian là vng trn cũng như vt cht hay duy vt khách quan, còn trí giác ca xut thế gian là phân bit cũng như ham tnh ghét nhim ch lo phn t giác t đ, Duy thc ch quan. Đi trên thì đng hp vi "T d lc" ca chư Pht, đi dưới thì đng cm vi "Bi bt kh" cho chúng sanh. Thế thì đã trn phá ri cái vng thân ngũ m trn vượt khi ri cái vng kiếp ngũ trược trn dt ri ba cái vng hoc, trn r ràng ba cái đc tt..... nhn đến chng được rt ráo qu v Pht.


Trong nh
ng thi ta đương trì tng chú Lăng Nghiêm, nên biết mi ch đu do nơi t tâm đưa ra, tr li đến nghe nơi dòng t tánh, ming thì tng, tâm thì soi, chăm chăm như như rót nước chng sai di, cũng không cho tâm thn (ý thc) nó hôn trm và tán lon. Vy, ta lin khế hp ngay nơi "l viên thông" ca đc Quán Thế Âm, cũng dù thi vi gì gì na đâu chng là tánh tng bí mt ư ? ( xin xem kinh Lăng Nghiêm quyn th 6 vàli chú gii s được tường tn c nghĩa trên). Ngài Kim Cang Tng là ch tch bên b Mt b, vì Ngài năng h trì nhng người tu trì chú Lăng Nghiêm, khiến cho tu sĩ y được chóng thành tu công đc.


Nhĩ th
i Thế Tôn, tòng nhc kế trung, dũng bách bu quang, quang trung dũng xut, thiên dip bu liên, hu hóa Như Lai, ta bu hoa trung, đnh phóng thp đo, bách bu quang minh, nht nht quang minh, giai biến th hin, thp hng hà sa, Kim Cang mt tích, kinh sơn trì x, biến hư không gii, đi chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bo, cu Pht ai hu, nht tâm thính Pht, vô kiến đnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thn chú.


Lúc b
y gi, t trong tướng nhc kế nơi đnh ca Thế Tôn vt ra mt hào quang bng trăm ánh báu; trong hào quang hin ra mt hoa sen n hàng nghìn cánh, có mt Hóa Pht ngi trong hoa sen báu y, trên đnh Hóa Pht phóng ra mười đo hào quang bng nhng ánh ca trăm ngc báu, mi mi tia sáng y đu chiếu khp nơi đ th hin ra 10 hng hà sa thn Kim Cang Mt Tích : ông thì bưng núi, ông thì cm x v.v... khp cõi hư không, đi chúng đu nga mt trông nhìn, ôm lòng va kinh s va mến yêu đ xin Pht thương giúp, nên đu chăm lòng đi nghe Pht dy, đc hóa Pht trong hào quang mà nơi tướng vô kiến đnh phóng ra đó tuyên nói thn chú như sau.


Đây là đ
c Thế Tôn Ngài th hin cái tướng biến hóa ra đ thuyết thn chú (tc là năm hi thn chú s thy sau kia). Li S gii thích rng : Vi cái tướng tt nhc kế, so theo Vô thượng y Kinh nói, thì : Cái đnh đu ca Pht có xương óc ni cao lên t nhiên nó thành như cái "đu tóc bi", tc kinh đây bo là "Đi Pht đnh", cũng tên là Vô Kiến đnh, đ t bày là cái th bt đng trí. Bách Bu quang : hào quang bng ánh sáng ca trăm th báu, là đ tiêu biu cái dng sáng sut vô lượng trí chiếu khp trăm thế gii, vì đúng vi tánh khp giáp. Thiên dip bu liên : hoa sen báu n nghìn cánh, là trưng ra rng ngàn ln vn đúng như mt. Hu hóa Như lai ta bu hoa trung: Bu hoa là Nhơn, Như Lai là Qu, đ t rng : Nhân trùm bin qu, Qu thu ngun nhơn, mà Nhơn qu vn đng thi. Đnh phóng thp đo..... thp hng hà sa : Trên đnh hóa Pht phóng 10 tia sáng......10 s hng hà sa, là đ nêu rõ rng : Các pháp "Thp gii, thp như v.v...." mà pháp thì có sai bit, còn hào quang thì không lch khác, pháp và quang đu là cái diu dng ca "Như lai tng tánh", nhưng pháp và quang đu khp giáp th hin ra đó là : Chính đ t rng tng tánh y bn th nó sn sàng thanh tnh khp giáp pháp gii.


Kim Cang M
t Tích : Tiếng Phm là Sanda, tiếng Ta đc là Tán na. Li Phm ng Pancika, ta đc là Tán chi ca, dch là Mt ch, vì đ bn nghĩa Mt : Danh, Hành, Trí và Lý, làm v thn H pháp ch, bi s tích th hin làm Kim Cang thn, nên gi là Mt Tích : danh tích bí mt. Nghĩa là Bu quang y th nó như kim cương; không chi phá hoi được, mà nó phá hoi được s hng sa phin não ca thp gii (10 cõi), khp hin ra s hng sa diu dng trong mười cõi, nên nói là biến hư không gii. Uùy ái : S thương, vì đ uy đc, đ b dp, nên đi chúng đu s, đ t bi đ dung thâu, nên đi chúng đu mến yếu. Cũng như nói : Uùy kỳ oai, hoài kỳ đc. Đc Hóa Pht trong hào quang trên đnh là nêu rõ rng : "Cái th kín nhim" nó chng mượn công tu và chng, vì tâm vi Pht vn đu là vô v. Đc Hóa Pht nói thn chú là đ t bày "cái diu dng kín nhim" chng khá nghĩ bàn. Phóng hào quang hóa Pht nói chú, thì Hóa Pht thuyết chú đu là hào quang, là đ t "cái tướng kín nhim" vô ngi thanh tnh. T nơi đnh Pht là đ t tc là Hin, tc là Mt, vì pháp nó không khác nhau. Vô Kiến : không thy, là nêu rõ rng chng phi Hin, chng phi Mt, vì pháp nó vn vng lng. Đây chính là cái trn chng ca Như Lai, và tc là cái th mà chúng sanh đng đ. Song, Lý nó nhơn nơi S đ t bày, còn pháp là theo nơi Cơ đ cm hóa. Vì A Nan trước nh Ngài Văn Thù đem thn chú đến cu h ri dn v, đó là ch mi đng s li ích ca pháp Mt mà thôi, ch chưa được rõ nghe v pháp Hin. V đến pháp hi, đã nh đc Như Lai mi tng ch v....A Nan mi t ng đng lý Viên đn, rõ được s viên tu. Còn vi nhng điu mà ông mun thâu tâm vào đnh Th Lăng Nghiêm đ tránh xa các s ma chướng, thì còn phi nh 4 gii Trng cm gi được như giá trong tuyết trng. Chí như nhng thói quen ca my đi trước rt khó tr, thì cn phi tng "Pht đnh Th Lăng Nghiêm thn chú" mi tr đng. Thế nên trong cun th 7, A Nan lp li cu Pht phóng quang hin đc Hóa Như Lai tuyên thuyết thn chú.


Trong b
Du Già dy có 4 cách nim tng : 1/ nim tng có âm thinh, là nim bng cách đc ra tiếng. 2/ Kim Cang nim tng : ngm ming nim thm, cung lưỡi hơi c đng. 3/ Nim tng bng phép Tam ma đ : là nim trong tâm tưởng. 4/ Chơn tht nghĩa nim : tu hành đúng vi ch Nghĩa.


L
i hoc phân làm 5 cách nim tng : 1/ Xut nhp tc tng, là lòng tưởng theo tiếng ch chú, tùy theo hơi th ra hút vào, h hơi ra thì tưởng ch ra, hơi vào thì tưởng ch vào, mi ch rõ rành, như xâu chui ngc, trước sau khong h xen. 2/ Du Dà trì tng : tưởng nơi trái tim ta nó tròn như mt nguyt, trong ngoài phân minh, tưởng như th lp ch thn chú trước quanh qua bên hu, mi ch khp ba chy theo cái bìa vòng tròn ca mt trăng y, rt ri tr li như trước. 3/ Kim Cang trì tng : ngm môi, trong ming nim nh nh lm thm nơi đu cung lưỡi. 4/ V thinh trì tng: đc mi ch cho rõ ràng, tiếng đc ch va l tai mình nghe được mà thôi, ch đng đc ln đến người gn nghe. 5/ Cao Thinh trì tng : cao ging nim tng ln tiếng đ cho người nghe, hu dt ác sanh thin.


Trong Nh
ư ý bu kinh, ông Diu Tr B Tát hi : Có người cũng nim tng bài thn chú đây, nhưng ti sao không thy được tam thế chư Pht ? Pht đáp rng : Bi vì lòng còn tr trước nơi nghip thin hay ác, lòng nghi ngi chưa đon, lòng chp hu vi, và không có phương tin; nếu có th tâm không nghi hoc, quyết đnh chuyên chú, thế mi gi là chơn thc trì tng được.


L
i, ông Diu Tý B Tát hi : trì tng thn chú mà không th kết qu, là phi chăng pháp lc vô hiu ? Hay là nhng thi tu nim trái gi ? Hoc na, chng tánh nó chng phi Pht tánh ư? Hoc Thn chú còn khuyết đim li ích ? K tu trì t ý khinh mn ? Hay là l vtcúng dường chng đ ? Kim Cang th b tát tr li rng : Người mà tu chép chơn ngôn cũng như thn chú, mun cho được thành tu, thì cn phi lìa hn các phin não, dy nơi đc tin sâu, phát tâm b đ, kính trng Pht, Pháp, Tăng, Tam Bo, xa lìa mười nghip ác, b thói tàkiến, hành pháp thp thin; vào đàn nim chú, nương theo v A xà lê, quyết chí mnh tiến, sám hi nghip chướng t đi trước, giúp bn đng tu, vt cúng tinh khiết, thì phép tu chơn ngôn nó không sai ngoa. Trái li, người tu chng đúng phép thì chc chn được linh cm. Đi nay người tu trì không được ng nghim, đã không t trách li mình mà tr li phin trách kinh chú vô hiu. Tht là vô lý ! Nếu do đó mà sanh tâm nghi ng chê bai, tt phi chu qu báo ti ác, vi hng người tu tng như thế đó, than ôi khá tiếc !


Phuï : Sau đây là năm đ
thn chú (đi vi Phm ng là tiếng ca Aán Đ, tôi chưa hc nói được nên ch dch bng tiếng vit đc, ch Nho ca Vit xưa mà thy T đã vn truyn dy by lâu. T Vân Thê cũng đã phán : "Không biết tiếng Phm thì đc ngay tiếng th âm ca mình cũng đng, vì không cn tiếng mà cn tâm, bi thn chú, nghĩa : Uy linh bt trc gi là Thn, tùy tâm sơ nguyn gi là Chú". Li : linh ti ngã, bt linh ti ngã; thế cn gì tiếng Phm?


Năm hi thn chú trên nói đ "tánh Như lai tng" mt cách rt kín nhim (pháp mt), còn kinh Lăng Nghiêm cũng nói v "tánh Như Lai tng" mà nói mt cách rt rõ ràng (Pháp hin). Bi vì có chúng sanh nghe thuyết pháp "mt giáo" ri t t ng vào chơn lý; hoc có chúng sanh nhơn nghe nói pháp "Hin giáo" mà t nhn rõ được chơn lý. Thế đ biết rng : hoc hin thuyết, hoc mt thuyết...đâu chng phi là phương pháp ca Pht giáo hóa chúng sanh ? Ngài có đ phương tin bng ba pháp lun bt kh tư ngh như thế. Phép thn chú ca TiênPhm thiên làm ri lon tâm tánh ca A nan, đến khi nó gp chú Lăng Nghiêm do Hóa Pht trong hào quang trên đnh đc Thế Tôn nói, thì thn chú Tri b thn chú Pht đánh tiêu, chng nhng gii cu được cái ly "kiết hoc" cho A Nan, mà cũng khiến cho nàng Ma Đăng Già lin chng được qu thánh th ba (A Na Hàm). Bi vì sc thn chú ác pháp t như la ca con đôm đm, ánh sáng ca thn chú thin pháp như ngàn mt nht ; la đm kia gp mt ngn đèn còn không rõ sáng đng, phương chi vi nghìn mt nht ư ? Thê nên vi thin chú đây người tng cũng đc công đc bt kh tư ngh. Tc là "Sità tapatra" "Tt đát đa bát đát ra " tên ca chú "đi Pht đnh", dch : "Bch tán cái" nghĩa : Cây tàn trng tc là ch cái "tng tâm", vì rng; chng cùng hp nhau vi điu vng nhim, nên nói là "Bch : Trng", bi như cây tàn trng che mát chúng sanh. Qu quái các cht đc đa, tám honh, chín nn, sao tai ương, chiêm bao ác đu không nhim trúng tai hi gì được; chư Thiên chư Thn thường đến phù h. Du l phm ti ngũ nghch, t trng, cũng đu được sám hi. Xa lìa các điu Ma chướng, rt được thành đo Pht. H có cu nguyn gì, thì tùy mun thế nào đu kết qu thế ny. Xin xem cun Lăng Nghiêm th 7.







LĂNG  NGHIÊM THẦN CHÚ  có 5 hội:

 

HỘI THỨ NHẤT

TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI

( VAIROCANA SATTHATA PATTRAIN )

 

Đây là “TỲ-LÔ-GIÁ-NA CHÂN PHÁP HỘI”, có nghĩa: Những lời bí mật của 12 pháp môn đoạn dưới đều từ nơi PHÁP-THÂN hay TỲ LÔ CHÂN TÁNH LƯU LỘ RA.

 

HỘI THỨ HAI

THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI

( SAKYAMUNI SATATHA PRASASITA)

 

Đây là “THÍCH-CA ỨNG-HÓA HỘI” hay LĂNG NGHIÊM GIÁO CHỦ HỘI, có nghĩa: Năm bộ Tam-Bảo trong thần chú gồm chư DƯỢC-XOA, THẦN-VƯƠNG, KIM-CANG MẬT-TÍCH, cho đến tất cả Pháp môn, đều do đức Phật  Thích Ca và chư Phật THỊ HIỆN RA.

 

HỘI THỨ BA

QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI

(AVALOKITE SHVARAYA SUPARANA MAHA PAYUH PATTAYA)

 

Đây là “QUÁN-THẾ-ÂM HIỆP-ĐỒNG-HỘI”. Bốn môn trong đây đều là do đức Quán-Thế-Âm trên đồng dưới hiệp, VIÊN-THÔNG TU CHỨNG chẳng thể nghĩ bàn, đức mầu VÔ-TÁC thành tựu một cách tự-tại.

 

HỘI THỨ TƯ

KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI

(VAJRA PANIYA SATTATHA PATTRA)

 

Đây là “KIM-CANG-CHIẾT-NHIẾP-HỘI”, do HỎA-THỦ-KIM-CANG BỒ-TÁT KHAI HIỂN, nên chư Kim-Cang-Tạng-Vương sau khi nghe niệm chú, đều dùng sắc lịnh để hộ vệ, đối với kẻ ác thì chiết phục, với kẻ thiện thì nhiếp thâu.

 

Chư Kim-Cang Mật-Tích cũng đều hiện phần bản tích ứng hóa của mình.

 

HỘI THỨ NĂM

VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI

(MANJUSRI SATTVA SITATA PATTRAI)

 

Đây là “VĂN-THÙ-PHÚ-HỘ-HOẰNG-TRUYỀN-HỘI”. Đức Văn-Thù hay Mạn-Thù-Thất-Lỵ sau khi lãnh chú đến che chở hộ trì rồi thay đại chúng thưa hỏi pháp môn tu. Nếu chẳng phải là bậc đại trí đức thì không thể thông hiểu và hoằng truyền pháp môn nầy.

Năm hội trên tượng trưng cho NGŨ-TRÍ ĐẢNH của Tỳ Lô Giá Na. Hiệp cả năm hội lại gọi chung là PHẬT ĐẢNH QUANG TỤ CỨU CÁNH KIÊN CỐ ĐẠI BẠCH TÁN CÁI THẦN CHÚ.


(VSNISA JVALA SURAM GAMA MAHA SITATA PATTRAM)



Còn thi khóa chiu hôm, hành gi tng Di Đà, Hng danh bo sám và Mông Sơn thí thc đ giúp tiêu nghip, sanh phước và khi bi tâm, thí thc ăn ung cho cô hn ng qu, ri nim Pht đem công đc hi hướng cu cho mình và bn ân ba cõi, tt c loài hu tình đu sanh v Tnh Đ.

Cho nên hai thi khóa tng đu do chư B-tát, T sư dùng trí hu hiu rng thy xa biên son ra đ làm li vui cho tt c chúng sanh, nếu bác b chng nhng là thin cn mà s e còn có ti vi Pht pháp na.

 

Và sau rt, xin mượn my li đ kết cuc:

 

Bin l tràn đy kiếp chuyn-luân

Ai người biết nghĩ t thương thân?

Xung lên sáu no

Thng não vô ngn!

Con đường sa đa khôn ly thoát

Huyn thân my chc

Tám kh xoay vn!

Nhc vinh tài sc bao nhiêu mng

Nim Pht tu hành mt kiếp chân

Sm mượn đài sen v Cc Lc

Mi mong xa dt ly hng trn

Nhc nhn mai li ti

Già chết cht đà gn!

 


(Hòa Thượng Thích THIỀN-TÂM)



Vô Nht Đi Sư

 

PHM NGƯƠN L

 

Cư sĩ Phm Ngươn L t Dng Hòa, người đi Thanh, quê Tin Đường. Thu niên thiếu ông hc Nho, tâm hnh thành tht, th song thân rt có hiếu. Mt đ, người cha đau, ông ct tht bp vế sc hòa vi thuc đem dâng, bnh được lành. M là Dư th m nng, ông li làm như thế mt ln na, bnh cũng thuyên gim.

Không bao lâu, song thân đu quá vãng, v cũng kế tiếp mãn phn. By gi đang lúc tráng niên, Ngươn L cm khái cuc thế vô thường, dp b duyên trn, theo nhà dưỡng chân tu hc đo Tiên. Tri hơn mười năm như thế, công phu đã có đôi phn hiu nghim. Sau nhân đc sách ca ngài Liên Trì, ông cht tnh ng, đến chùa Vân Thê xin th tam quy ngũ gii. Ngươn L gi gii hnh rt bn chc, nhng th phc dng bng tơ tm lông thú đu không dùng, b hết li tu cũ, chuyên v Tnh đ. Đi vi pháp quán tưởng, cư sĩ li càng tinh mt. Trước kia khi thân mu sp lâm chung tinh thn m lon, cư sĩ khuyên chuyên lòng quán tưởng đc Quán Thế Âm, bà m y li làm theo. Vài hôm sau, bng nói: “M đã được B Tát tiếp dn đến cnh gii l mu sáng đp!’’ Nói xong vui v mà qua đi. Bi duyên do đó, Ngươn L rt tin s hiu nghim ca môn quán tưởng.

Cư sĩ tánh hin lành, ưa phóng sanh b thí, giúp đ k nghèo kh hon nn. Khi làm nhng vic t thin, ông rt siêng cn chu đáo, không nài mi nhc. Gp chư Tăng Ni, đu phát tâm tùy sc cúng dường không b sót. Vì thế đương thi nghe ti tên Ngươn L, hàng tăng tc đu biết và mến trng.

Mùa h năm Đo Quang th tám, cư sĩ đóng ca nhp tht nơi Đi Đng Các Thành Nam, đnh kỳ hn trăm ngày nim Pht. Mt hôm đang khi ngi tnh, huyn công tu Tiên thu trước bng phát hin. Lúc y ông cm thy thanh khí ca tri đt t gia hư không kết thành nhiu làn, liên tiếp đi vào đnh, mũi, ming, ri thng xung đơn đin, cùng vi ngươn khí ca mình hòa hp. By gi thân tâm rt an n nh nhàng và đim lc không th thí dGiây phút có mt đa anh nhi cao chng vài tc, t đnh môn xut hin. Đa bé y bay ling xung quanh đùa gin tri mt thi gian, ri do đnh đu tr vào. T đó v sau, mi khi tu đến mc cc tĩnh quên trn nim, lin có anh nhi ra vào như trước. Ban sơ Ngươn L tâm ý rt mng, sau đó cht nghĩ: 

 

“Đây có phi là mt trong năm mươi th m ma ca kinh Lăng Nghiêm nói chăng? Nếu ta cho là kỳ đc tt s lc vào by tà. V li người nim Pht chí Tây phương, thánh cnh không hin, li chung th ny đ làm gì?”

 

Do đó thường thường giác chiếu gi chánh nim, anh nhi mi không còn xut hin. Nh duyên ny, cư sĩ mi khế ng sâu lý duy tâm, sc tín nguyn hnh càng thêm thun chc, v sau ông thường bo người rng: “Cnh gii y là ca i nguy him nht thu sanh bình. Nếu tôi không sm giác tnh, tt s lc vào bàng môn. Thế nên biết s tu hành cn phi tinh tường dè dt!”

Mùa h năm Đo Quang th mười mt, Ngươn L tĩnh dưỡng nơi chùa Tch Chiếu ngoài ca Thanh Thái. đa phương ny có bà h Trm lòa c đôi mt. Bà có chí nim Pht, song b con dâu thường ngăn tr. Cư sĩ nghe biết lin bo: “Vic ny có th dàn xếp n tha. Hành đng ca cô dâu kia là do vì gia cnh nghèo thiếu, nếu giúp cho s sng tt mi vic đu yên”. Nói đon ông vào thành quyên m, nh người giúp cho Trm bà mi tháng vài đu go. Bà dùng có dư chuyn giao cho người dâu, nên cô ny hoan h không còn ngăn tr na. Ngươn L li din nói s li ích v nim Pht cho nghe, và dy bo cách sám hi phát nguyn. My tháng sau, mt người hàng xóm ca Trm th ti nói vi cư sĩ: “Bà lão nim Pht hôm trước, nay đã vãng sanh ri!” Ngươn L hi nguyên do, người y thut li tng vic:

Sau khi được s giúp đ, bà lão siêng năng nim Pht thế nào? Sám hi phát nguyn ra sao? Đến tháng va ri, Trm th biết trước ngày v Tây phương, bo cho cô dâu hay. Ti kỳ hn, bà tm gi thay y phc, ngi chp tay nim Pht mà vãng sanh Trm bà di chúc cho cô dâu nh chuyn li t ơn Phm công. Hin thi bà va mãn phn chưa có quan quách và đ tn lim. Cô dâu đnh bán đa con gái đ lo sm v vic y. Bây gi phi làm thế nào?”

Ngươn L nghe nói, lin bàn vi các thin hu, góp chung được mt s tin, giao cho người hàng xóm đem đến giúp cô dâu. Hơn tun sau, ông li ti nhà hi thăm. Đến nơi thì người dâu tay đang cm tràng chui, ming lâm râm nim Pht. Thy cư sĩ đến, cô vui mng đón rước kính li t ơn. Va ngi xong, nhng người hàng xóm hay tin t tu, tranh nhau mun biết mt Phm công. Ri hết k n ti người kia chuyn nhau thut li vic ca bà h Trm, đi khái y như ông hàng xóm đã nói hôm trước. H li ch mt cô bé nói: “Khi mua quan quách tn lim xong, hàng xóm đu bàn lun: Phm công vn người trong thành, mà còn chu t xa làm vic thin. Chúng ta là tình lân lý, đâu nên làm khách bàng quan! Do đó tt c mi chung góp tin mua đt, đem quan tài ca m cháu và luôn linh cu ca chng cháu đã quàn đ t lâu, đng mt ngày đem đi an táng!” Cư sĩ nghe nói vui v ra v.

Mùa đông năm y, Ngươn L đem nhng công vic t thin ca mình làm còn d dang lo tính toán kết thúc và chuyn giao trách v cho mt liên hu khác. Tháng giêng năm sau, cư sĩ đến riêng tng nhà các đng bn, ân cn khuyến khích tu hành, dường như k sp đi xa. Người con trai ca cư sĩ có vic đến min Tòng Giang, ông bo: “Con đi ra ngoài, mi vic nên khéo x s. Cha nay tui già, thng có điu chi biến c, cũng ch nên kinh lo. Phi gi bn phn mình đi vi trách v ca người giao phó!” Nghe nói, cu trai tuy hiu biết, song ch cho đó là li quá lo xa ca người ln tui mà thôi.

Đến ngày hai mươi bn tháng giêng, Ngươn L thc dy sm bo gia nhơn rng: “Hôm nay ta thy trong người hơi mi nhc!” Nói đon vn dùng cháo sáng như thường. Ăn xong, cư sĩ đi tn b đến trước nhà gn bên đng bàng hoàng mt khc, ri tr v ngi ngay thng nơi giường nim Pht. Con cháu trong nhà thy hơi l hi thăm, ông khoác tay ra du bo im lng. Đến gi Ng, tiếng nim nh ln ri an n mà qua đi. Gi Du ngày hôm sau nhp lim, đnh đu hãy còn nóng. By gi nhm năm Đo Quang th mười hai, cư sĩ hưởng th sáu mươi ba tui.

 

LI BÌNH:

 

Xem cách thc Dng Hòa lo kết liu mi vic, t bit bn, dn dò con, chng th gi là không d biết trước gi lâm chung. Nhưng ti sao ông li không nói ra minh bch? Theo thin ý, s biết trước ngày gi quí ch t biết đ cho tâm được yên vng, không ch đích đ phô trương vi mi người. Hung chi nếu đến gi mà bn lành đu t hp, hoc ra có s li ích tr đo. 

 

Thng như quyến thuc không nén được thế tình, vây quanh ngm ngùi thương khóc, há chng phi mun thành mà tr li bi ư? Vic cư sĩ Dng Hòa không nói ra, tt cũng bi lý do đó.



Nếu có tập khí các đời trước không thể diệt trừ, ông dạy người đó nên nhất tâm tụng thần chú của ta:


 PHT ĐNH QUANG T

MA HA TÁT ĐÁT ĐA BÁT ĐÁT RA

TH LĂNG NGHIÊM THN CHÚ

 

 

Nam-mô Lăng-nghiêm Hi-thượng Pht B-tát. (3 ln)

 

Diu trm tng trì bt đng tôn, Th lăng nghiêm vương thế hi hu, Tiêu ngã c kiếp điên đo tưởng, Bt lch tăng kỳ hoch Pháp thân, Nguyn kim đc qu thành Bo Vương, Hòan đ như th hng sa chúng, Tương th thâm tâm phng trn sát, Th tc danh vi báo Pht ân, Phc thnh thế tôn v chng minh, Ngũ trược ác thế th tiên nhp, Như nht chúng sinh v thành Pht, Chung bt ư th th nê hoàn, Đi hùng đi lc đi t bi, Hi cánh thm tr vi tế hoc, Linh ngã to đăng vô thượng giác, Ư thp phương gii ta đo tràng, Thun nhã đa tánh kh tiêu vong, Thước ca ra tâm vô đng chuyn.

 

Nam mô thường trú thp phương Pht,

Nam mô thường trú thp phương Pháp,

Nam mô thường trú thp phương Tăng,

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Pht,

Nam mô Pht Đnh Th Lăng Nghiêm,

Nam mô Quan Thế Âm b tát,

Nam mô Kim Cang Tng b tát.

 

Nhĩ thi thế tôn, tùng nhc kế trung, dõng bá bo quang, quang trung dõng xut, thiên dip bo liên, hu hoá Như Lai,ta bo hoa trung, đnh phóng thp đo, bá bo quang minh, nht nht quang minh, giai biến th hin, thp hng hà sa, kim cang mt tích, kình sơn trì s, biến hư không gii, đi chúng ngưỡng quan, úy ái kim bo, cu Pht ai hu, nht tâm thính Pht, vô kiến đnh tướng, phóng quang Như-Lai, tuyên thuyết thn-chú:

  

 

 PHT ĐNH 

TH LĂNG NGHIÊM THN CHÚ

 




Ð NHT

 

Nam-mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế tam-miu tam-b-đà-ta.Tát đát tha Pht đà cu-tri sc ni sam.

Nam-mô tát bà bt đà bt đa, tát đa b t.

Nam-mô tát đa nm tam-miu tam-b-đà cu-tri nm. Ta xá ra bà ca tăng-già nm.

Nam-mô lô kê a-la-hán đa nm.

Nam-mô tô lô đa ba na nm.

Nam-mô ta yết r đà già di nm.

Nam-mô lô kê tam-miu già đa nm. Tam miu già ba ra đ ba đa na nm.

Nam-mô đ bà ly st na.

Nam-mô tt đà da tỳ đa da đà ra ly st na. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nm.

Nam-mô bt ra ha ma ni.

Nam-mô nhơn đà ra da.

Nam-mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê d da.

Nam-mô bà già bà đế.

Na ra d noa da. Bàn-giá ma-ha tam m đà ra.

Nam-mô tt yết r đa da.

Nam-mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Ða r bác lc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A đa mc đế. Thi ma xá na nê bà tt nê. Ma đát r già noa.

Nam-mô tt yết r đa da.

Nam-mô bà già bà đế. Ða tha già đa cu ra da.

Nam-mô bát đu ma cu na da.

Nam-mô bt xà ra cu ra da.

Nam-mô ma ni cu ra da.

Nam-mô già xà cu ra gia.

Nam-mô bà già bà đế, đế r trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà dà, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế.

Nam-mô a di đa bà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, a sô b da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, b sa xà da cu lô ph tr r da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.

Nam-mô bà già bà đế, tam b sư bí đa, tát lân ni ra lc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, xá kê dã mu na du, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da.

Nam-mô bà già bà đế, lc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam-miu tam-b-đà da, đế biu nam-mô tát yết r đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đác tha già đô sc ni sam, tát đác đa bác đác lam.

Nam-mô a bà ra th đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà b đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bc ra bí đa da st đà n, a ca ra mt r tr, bát r đát ra da nnh yết r, tát ra bà bàn đà na mc xoa ni, tát ra bà đt sc tra đt tt php bát na n pht ra ni, gi đô ra tht đế nm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết r, a sc tra băng xá đế nm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết r, a sc tra nm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết r, tát bà xá đô lô n bà ra nhã xà, hô lam đt tt php nan giá na xá ni, bí sa xá tt đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra th đa cu ra ma ha bác ra thin trì, ma ha đip đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bt ra bàn đà ra bà tt n, a r da đa ra, tỳ r cu tri, th bà tỳ xà da, bc xà ra ma l đ, tỳ xá lô đa, bt đng dõng ca, bt xà ra chế ht na a giá, ma ra chế bà bác ra cht đa, bc xà ra thin trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá b đ bà b th đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a r da đa ra, ma ha bà ra, a bác ra, bt xà ra thương yết ra chế bà, bt xà ra cu ma r, cu lam đà r, bt xà ra hc tát đa giá tỳ đa gia kin giá na ma r ca, khut tô mu bà yết ra đá na, b lô giá na cu r da, d ra th sc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bt xà ra đn tr giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mu đà ra yết noa, ta b ra sám, qut phm đô, n th na m m ta.

 

  

Ð NH

 

Ô hng, r st yết noa, bác lc xá tt đa, tát đát tha già đô sc ni sam. H hng, đô lô ung chiêm bà na. H hng, đô lô ung tt đam bà na. H hng, đô lô ung ba ra sc đa da tam bác xá noa yết ra. H hng, đô lô ung, tát bà dược xoa ht ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đng băng tát na yết ra. H hng, đô lô ung, gi đô ra thi đ nm, yết ra ha, ta ha tát ra nm, tỳ đng băng tát na ra. H hng, đô lô ung, ra xoa, bà già phm tát đát tha già đô sc ni sam, ba ra đim xà kiết r, ma ha ta ha tát ra, bt th ta ha tát ra tht r sa, cu tri ta ha tát nê đế l, a t đ th bà r đa, tra tra anh ca ma ha bt xà lô đà ra, đế r b bà na, man trà na, ô hng, ta tt đế bc bà đô, m m n th na m m ta.

 

  

Ð TAM

 

Ra xà bà d, ch ra bt d, a kỳ ni bà d, ô đà ca bà d, tỳ xa bà d, xá tát đa ra bà d, bà ra chước yết ra bà d, đt sc xoa bà d, a xá n bà d, a ca ra mt r tr bà d, đà ra ni b di kiếm ba già ba đà bà d, ô ra ca bà đa bà d, lc xà đàng trà bà d, na già bà d, tỳ điu đát bà d, tô ba ra noa bà d, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tt r đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, b đa yết ra ha, cưu-bàn trà yết ra ha, b đơn na yết ra ha, ca tra b đơn na yết ra ha, tt kin đ yết ra ha, a bá tt ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa d yết ra ha, hê r bà đế yết ra ha, xã đa ha r nm, yết bà ha r nm, lô đa ra ha r nm, mang ta ha r nm, mê đà ha r nm, ma xà ha r nm, xà đa ha r n, th t đa ha r nm, tỳ đa ha r nm, bà đa ha r nm, a du giá ha r n, cht đa ha r n, đế sam tát b sam, tát bà yết ra ha nm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ba r bt ra gi ca ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, trà din ni ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ma ha bát du bác đát d, lô đà ra ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, na ra d noa ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, đát đa già lô trà tây ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ma-ha ca ra ma đát r già noa ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ca ba r ca ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, xà d yết ra, ma đ yết ra tát bà ra tha ta đt na ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, gi đt ra bà kỳ n ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, tỳ r dương ht r tri, nan đà kê sa ra dà noa bác đế, sách hê d ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, na yết na xa ra bà noa ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, a-la-hán ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, tỳ đa ra già ht r đm, t đà d xà sân đà d di, kê ra d di, bt xà ra ba n, cu hê d, cu hê d, ca đa bát đế ht r đm, tỳ đà d xà sân đà d di, kê ra d di, ra thoa vng, bà dà phm, n th na m m ta.

 

 

Ð T

 

Bà già phm, tát đát đa bác đá ra, Nam-mô tý đô đế, a tt đa na ra lc ca, ba ra bà tt ph tra, tỳ ca tát đát đa bát đế r, thp Pht ra thp Pht ra, đà ra đà ra, tn đà ra tn đà ra, sân đà sân đà. H hng. H hng, phn tra, phn tra, phn tra, phn tra, phn tra, ta ha, hê hê phn, a mâu ca da phn, a ba ra đ ha đa phn, ba ra bà ra đà phn, a t ra tỳ đà ra ba ca phn, tát bà đ b t phn, tát bà na già t phn, tát bà dược xoa t phn, tát bà kin thát bà t phn, tát bà b đơn na t phn, ca tra b đơn na t phn, tát bà đt lang ch đế t phn, tát bà đt sáp t lê ht sc đế t phn, tát bà thp bà lê t phn, tát bà a bá tt ma lê t phn, tát bà xá ra bà noa t phn, tát bà đa đế kê t phn, tát bà đát ma đà kê t phn, tát bà tỳ đà da ra th giá lê t phn, xà d yết ra ma đ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê t phn; tỳ đa d giá lê t phn, gi đô ra phược kỳ n t phn, bt xà ra cu ma r, tỳ đà d ra th t phn, ma ha ba ra đinh dương xoa tỳ r t phn, bt ra xa thương yết ra d, ba ra trượng kỳ ra xà da phn, ma ha ca ra d, ma ha mt đát r ca noa.

 

Nam-mô ta yết r đa d phn, t sc noa tỳ du phn, bt ra ha mâu ni du phn, a kỳ ni du phn, ma ha yết r du phn, yết ra đàn trì du phn, mic đát r du phn, lao đát r du phn, giá văn trà du phn, yết la ra đát r du phn, ca bác r du phn, a đa mc cht đa ca thi ma xá na, bà tư n du phn, din kiết cht, tát đa bà ta, m m n th na m m ta.

 

  

Ð NGŨ

 

Ðt sc tra cht đa, a mt đát r cht đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô đa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, th t đa ha ra, bc lược d ha ra, kin đà ha ra, b s ba ha ra, ph ra ha ra, bà ta ha ra, bác ba cht đa, đt sc tra cht đa, lao đà ra cht đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế l đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, b đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tt kin đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa d yết ra ha, a bá tt ma ra yết ra ha, trch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, r Pht đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan đa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kin đ ba ni yết ra ha, thp Pht ra yên ca hê ca, try đế dược ca, đát l đế dược ca, gi đt thác ca, ni đ thp pht ra, t sam ma thp pht ra, bc đ ca, t đ ca, tht l st mt ca, ta n bác đế ca, tát bà thp pht ra, tht lô kiết đế, mt đà b đt lô chế kiếm, a lô kim, mc khê lô kim, yết r đt lô kim, yết ra ha yết lam, yết na du lam, đn đa du lam, ht r d du lam, mt m du lam, bt r tht bà du lam, t lt sc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bt tt đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hc tt đa du lam, bt đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng già du lam, b đa t đa trà, trà kỳ ni thp bà ra, đà đt lô ca kiến đt lô kiết tri, bà l đa tỳ, tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa d ca, a kỳ ni ô đà ca, mt ra b ra, kiến đa ra, a ca ra mt r đt đát lim b ca, đa lt lc tra, t r sc cht ca, tát bà na cu ra, t dn già t yết ra, r dược xoa, đác ra sô, mt ra th ph đế sam, ta b sam, tt đát đa bác đát ra, ma ha bc xà lô sc ni sam, ma ha bác lc trượng kỳ lam, d ba đt đà xá d xà na, bin đát l noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đác đic tha.

 

Án, a na l, tỳ xá đ, b ra bt xà ra đà r, bàn đà bàn đà n, bt xà ra bán ni phn. H hng, đô lô ung phn, ta bà ha.

 

 (7 ln)


 PHT ĐNH 

TH LĂNG NGHIÊM THN CHÚ

 

 

 

Comments

Popular posts from this blog