TỊNH-ĐỘ PHÁP-NGHI


MY LI BÀY T

 

 

Trong các hành môn ca đc Pht đã ch dy, môn nào cũng có pháp nghi riêng bit, t cách th cúng, l bái, trì tng, sám hi, phát nguyn v.v... Như Mt Tông li còn s lp đàn, kiến na.

Riêng v tông Tnh Đ, tôi thy có nhiu người không biết nghi thc hành trì cho đúng pháp. Li có nhng v không hiu nghĩa ch Hán, thành ra khi trì tng ch đc suông theo thông l, khó phát lòng thành khn, không th chuyn hướng tâm nim ca mình y như li văn. Nghĩ vì dòng đi c mãi trôi qua, người sau càng ngày li càng ít am hiu văn t Hán Vit, nên theo li yêu cu ca mt s đông, tôi son dch nghi thc tu Tnh Đ ra Vit văn đ giúp bn đng tu.

V pháp nghi Tnh Đ, có ba bc: thượng, trung, h. Đ không quá đơn gin và khi phin toái, tôi căn c theo pháp nghi ca ngài T Vân trong Tnh Đ Thp Yếu, son dch nghi thc theo bc trung. V cách trì danh, vn có nhiu đường li, theo ch kinh nghim và so vi thi cơ, tôi chn pháp Thp Nim Ký S.

V pháp nghi Tnh Đ, thu xưa chia làm năm môn, tôi ước kết li thành ba môn: l bái, trì tng và phát nguyn hi hướng. V li, pháp môn Tnh Đ có chuyên tu và kiêm tu; có v chuyên nim Pht, có v li kiêm tng kinh, trì chú, sám hi hoc tham thin. Theo n Quang Pháp Sư, thì người tu tnh nghip phi ly s nim Pht làm phn chính, my món kia làm phn ph, phn chính c nhiên phi gi cho nhiu hơn. Riêng v tng kinh, trì chú, nếu dùng đ giúp cho phn nim Pht và chí tâm hi hướng, cu vãng sanh, cũng có th gi là chuyên tu. 

Trên pháp môn trì danh, s hơn kém tht ra không ph nơi nghi thc, mà  ch: âm thanh rành rõ hay l m, tâm nim thành khn hay th ơ tán lon, công trì tng sâu nhiu hay cn ít. Nếu người biết tu thì mt lượt chiêm l, mt câu xưng danh, công đc cũng hơn k không biết tu rt nhiu. Tuy nhiên, nếu không có pháp nghi cho đúng, thì công đc hành trì thì cũng khó phát huy đến ch viên mãn. Và vì thế tôi mi son ra nghi thc ny.

X
ưa và nay cách nhau, chúng sanh căn cơ s thích đu sai khác, tôi không dám gi vic làm ny là hp vi mi người, cũng không dám cho nghi thc đây là hơn nhng pháp nghi đã có, ch tùy ch mong cu mà lo tho viết ra vy thôi.

 

Liên Du Thích Thin-Tâm












Lá Thư Tnh Ð

 

n Quang Ði Sư

 

Vit dch: Hòa Thượng Thích Thin-Tâm



 

Mt Bc Thơ Phúc Đáp Khp Nơi

 

(Li văn tuy quê tht, nhưng nghĩa lý vn căn c trong kinh. Nếu có ai y theo đây mà làm, s li ích s rng ln vô cùng! - n Quang Pháp sư)

 

1. Pháp môn Tnh đ trùm khp c ba căn, gm thâu hàng li đn, là đi pháp ca đc Như Lai, đ m phương tin cho tt c Thánh phàm đu được gii thoát sanh t, lên ngôi Bt thi ngay trong hin đi. Vi pháp mu nhim đc bit này mà không tin không tu, tht là đáng thương, đáng tiếc!!

Pháp môn Tnh đ ly tín, nguyn, hnh làm tông ch.

Tín là ta phi tin cõi Ta bà có vô lượng s kh; tin cõi Cc lc có vô lượng điu vui; tin ta là phàm phu đy nghip lc, quyết không th nương cy vào sc mình đ dt hoc chng chơn, thoát sanh t ngay trong hin đi; tin Pht A Di Đà có li th nguyn rng ln, nếu chúng sanh nào nim danh hiu Ngài, cu v nước Ngài, khi mng chung s được Ngài tiếp dn vãng sanh Cc lc.

Nguyn là ta nên nguyn mau ra khi thế gii này, nguyn sm sanh v cõi vui kia.

Hnh là ta phi chí thành khn thiết nim câu Nam Mô A Di Đà Pht, mi thi mi khc đng đ tm quên, tùy theo hoàn cnh gp hoãn lp mt khóa trình, sm ti l bái trì tng trước bàn Pht. Ngoài thi khóa tng, nhng khi đi đng nm ngi và làm nhng công vic không dng tâm, đu nên nim Pht. Lúc ng ngh phi nim thm, không nên ra tiếng và ch nim bn ch A Di Đà Pht đ d nhiếp tâm. Li, nhng khi y phc không chnh t, hoc git ra, tm gi, đi tiu tin, cho đến lúc đi ngang qua ch không sch s, cũng đu phi nim thm. Chí tâm nim thm, công đc cũng đng như nim ra tiếng. Trong nhng lúc y nếu nim ra tiếng thì chng hp nghi thc và có li không cung kính. Không lun nim ln tiếng, nh tiếng, nim Kim Cang hoc nim thm, đu phi trong tâm ghi nh rành r rõ ràng, ming nim rành r rõ ràng và hai tai nghe rành r rõ ràng. Nim như thế thì tâm không còn dong rui theo cnh ngoài, vng tưởng ln dt, câu nim Pht ln thun, công đc rt ln.

 

2. Người nim Pht phi hiếu dưỡng cha m, phng th sư trưởng, tâm t bi không giết hi, tu mười nghip lành (Thân không sát sanh, trm cướp, tà dâm; ming không nói di, nói thêu dt, nói đôi chiu, nói hung ác; ý không tham dc, gin hn, ngu si, tà kiến). Li cn phi: cha lành, con tho, anh em thương kính, chng v thun hòa, ch nhân, t trung, mi người đu gi tròn bn phn. Ta ch nên làm hết nhim v mình, đng so đo phin trách người khác đi vi mình có trn cùng không. Nếu người nào đi vi gia đình xã hi làm tròn thiên chc, đó là người lành. Người lành mà nim Pht thì d có cơ cm, quyết đnh khi lâm chung được Pht tiếp dn sanh v Tây phương vì tâm hnh hp vi Pht. Trái li, nhng ai ming tuy nim Pht, song lòng không nhim đo, đi vi cha m, anh em, v chng, con cái, bn bè làng xóm không tròn bn phn, thì tâm hnh trái vi Pht, khó được vãng sanh. Ti sao thế? Bi ngườy tâm không đim tnh thun hòa, t sanh ra mi não phin chướng ngi, nên khó được cm thông vi Pht, đó cũng là l tt nhiên.

 

3. Người nim Pht nên khuyên thân bng quyến thuc và tt c đng nhân đu nim Nam Mô A Di Đà Pht và Nam Mô Quán Thế Âm B tát. (Mi ngày như nim Pht 1.000 câu thì nim Quán Âm 500 câu, nim Pht 10.000 câu thì nim Quán Âm 5.000 câu. Nim nhiu ít so theo đây mà gia gim). Ta đã tìm được con đường gii thoát yên n, li n nào đ cho đng sanh thành, người quyến thuc cùng tt c đng nhân mt s li ích ln, chìm trong bin kh ư? Hung chi gia cõi đi nhiu hon nn, khó tránh s him nguy như hin nay, nếu có th thường nim Pht và Quán Âm, tt s được lượng t bi ng h, gp d hóa lành. Gi s không tai nn mà chí tâm trì nim, cũng s được nghip tiêu trí sáng, chướng hết phước nhiu. Hơn na, khuyên người nim Pht cu sanh Tây phương, tc là thành tu k phàm phu làm Pht, công đc rt ln, đem công đy hi hướng vãng sanh tt s mãn nguyn.

 

4. Người nim Pht khi tng kinh, trì chú, l bái, sám hi, cu tai nn, giúp k nghèo, tt c công đc lành đu phi hi hướng vãng sanh Tây phương, không nên cu hưởng phước báo  cõi tri, cõi người, trong hin ti hoc đi sau. Nếu có tâm niy thì mt phn vãng sanh và phi b chìm đm trong bin luân hi kh não. Nên biết, hưởng phước càng nhiu tt gây nghip càng ln, qua mt đi sau na quyết khó khi đa vào đường Đa ngc, Ng qu, Súc sanh. Chng y mun tr li làm thân người, được nghe pháp hin đi gii thoát ca môn Tnh đ, còn khó hơn lên tri. Pht dy chúng sanh nim Pht cu v Tây phương, là vì chúng sanh mà gii quyết vn đ sanh t ngay trong hin kiếp. Nếu ch cu đi sau hưởng phước báo  cõi nhân thiên tc là trái vi li Pht dy, như đem ht bo châu vô giá đi ly mt th đường đ ăn, há chng đáng tiếc lư? K ti tăm nim Pht không cu vãng sanh mà cu hưởng phước báo, cũng như đây không khác.

 

5. Người nim Pht không nên tp theo li tham cu ca nhà tu thin. Vì k tu thin hu hết đu không chú trng v vic tín nguyn vãng sanh. Dù có nim Pht, h ch chú trng vào câu “Nim Pht đó là ai?”đ cu khai ng mà thôi. Ta ch nên nim Pht cu sanh Tây phương, khi được thy đc A Di Đà lo gì không khai ng? Nế cõi này tu thin, như hoc nghip dt hếthì có th thoát sanh t; thng như hoc nghip chưa dt thì đã không th cy vào sc mình đ gii thoát, li vì không tín nguyn nên không được nương nh sc Pht ra khi luân hi. Hai bên t lc và Pht lc đu không nh cy được, ngườy đâu th nào thoát khi trn lao? Nên biết bc pháp thân B tát khi chưa thành Pht đu phi nh oai lc ca Pht, hung chi ta là phàm phu đy nghip chướng mà ưa lun v sc mình, không cu sc Phư? Ly tuy cao, song xét li hành vi tht là thp kém! S hơn kém ca Pht lc và t lc khác xa nhau như tri vc, nguyn đng nhân nên th tt nghĩa này!

 

6. Người nim Pht không nên bt chước k ngu ti, làm nhng vic hoàn th sanh, gi kho. Bi s hoàn th sanh, trong Kinh Pht không có nói, do người sau bày đt ra. Còn gi kho là mun cho mình khi chết ri thành qu, nên mi sm trước tin ca đ vt cho thân qu dùng. Đã có tâm nim mun làm qu thì khó được vãng sanh. Như người nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm, phi bch rõ trước bàn Pht như vy: “Đ t là... ch cu vãng sanh, nhng đ minh kh đã gi khi trước, xin đem chn tế cho cô hn.” Như thế mi không chướng ngi cho s sanh v cõi Pht.

Li nhng th kinh: Th Sanh, Huyết Bn, Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo Vương, Thai Ct, Phân Châu, Diu Sa... đu là kinh ngy to, không phi kinh ca Pht nói, không nên trì tng. Nhng k quê ti, không chu tng Kinh Đi tha (như các kinh: A Di Đà, Vô Lượng Th, Quán Vô Lượng Th, Tâm Kinh, Kim Cang, Pháp Hoa, Dược Sư, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Ph Hin Hnh Nguyn Phm v.v...) mà ch tin các th kinh ngy ty, mun làm nhng vic hoàn th sanh, phá Đa ngc, phá huyết h, mi yên tâm. Nếu có người hiu Pht pháp khuyên bo nói đó là nhng kinh ngy to, h cũng không nghe li. Nên biết, làm các Pht s, ch có nim Pht là công đc rng ln, nên đem s tin hoàn th sanh, phá Đa ngc, phá huyết h y, thnh nhng v Tăng chơn chánh nim Pht cho, thì được li ích rt nhiu.

 

7. Người nim Pht nên ăn chay trường, như chưa được thế, thì gi lc trai hoc thp trai, đ ln ln b hn các th tht ca chúng sanh, mi là hp lý. Lc trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào đó my ngày: mùng 1, 18, 24, 28 thì thành ngày thp trai. Nhng tháng thiếu, nên ăn trước mt ngày. Li, tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai nguyt, nên ăn chay trường và làm các vic công đc. Dù chưa ăn chay được, cũng nên mua tht cá đã làm sn, ch sát sanh trong nhà. Nếu mi ngày sát sanh thì cái nhà y đã thành lò sát sanh, là ch oan qu t hi, không được an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là điu rt cm k.

 

8. Người nim Pht nên khuyên cha m nim Pht cu sanh Tây phương. Mun cho cha m khi lâm chung quyết đnh được vãng sanh, thì phi dn trước người quyến thuc v cách tr nim và ch nên khóc lóc cùng bày v nhng điu vô ích. Li, lúc bình thi phi vì cha m ging rõ s li ích ca môn nim Pht khiến cho song thân thường nim không quên. Thế thì chng nhng cha m được li ích, mà quyến thuc hin ti hoc con cháu đi sau cũng đượnh hưởng gii thoát an lành. V phương pháp tr nim khi lâm chung, không lun già tr, đu phi làm đúng như thế.

 

9. Người n khi sp sanh thường b đau kh không kham, có khi vài ngày sanh không được, hoc chết vì sn nn. Có người tuy sanh được nhưng li b huyết băng và nhiu bnh nguy him. Đa con sanh ra thì b các chng cp nn, kinh phong v.v... Cho nên, người n lúc sanh sn, nên chí thành khn thiết nim Nam Mô Quán Thế Âm B tát. Khi nim cn phi to tiếng, không nên nim thm, vì nim thm do tâm lc kém nên scng cũng kém. Li trong lúc y sn ph đang dùng sc sanh đa bé ra, nếu nim thm thì nín ép hơi phi mang bnh. Nếu chí thành khn thiết mà nim, quyết không có s đau đn, khó sanh, huyết băng, đa con s khi bnh kinh phong, và các chng nguy him khác. Dù gp trường hp khó sanh, có nguy him đến tánh mng, sn ph cùng nhng k h sanh cũng phi đng to tiếng nim Quán Âm. Người quyến thuc tuy  nơi khác, đu phi vì sn ph nim giúp. Như thế, không đy giây phút, sn ph lin được yên n mà sanh. K ngoi đo không rõ lý này, chp cht mt vic cung kính, chng biết căn c theo s mà lun lý, khiến cho my bà lão nim Pht xem sanh sn là vic đáng s, cho đến dâu con ca mình sanh cũng không dám qua săn sóc, hung chi là nim Quán Âm? Nên biết B tát ly s cu kh làm lòng, lúc sanh sn, tuy lõa l không sch, nhưng đó là vic dĩ nhiên, không phi mình t ý buông lung, nên nim đã không có ti li, mà li khiến cho m con sn ph gieo trng căn lành. Nghĩa này trong Kinh Dược Sư đã có nói, không phi t tôi đưa ra đic kiến. n Quang này ch là người đ xướng mà thôi.

 

10. Người n t mười hai, mười ba tui đến bn mươi tám, bn mươi chín tui, đu có nguyt kinh. Có k bo: trong lúc nguyt kinh, chng nên l bái trì tng. Li này rt không hp tình lý. Thi kỳ có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu đến sáu by ngày mi dt; người tu trì cn phi nim Pht không xen h, đâu nên vì mt chút bnh nh thiên nhiên mà b lãng thi tu niư? Khi có nguyt kinh ch nên l bái ít (l bái ít ch chng phi tuyt nhiên không ly), còn s tng kinh nim Pht đu chiếu theo l thường. Nên thường thay git vi dơ, phi ra tay cho sch s, đng dùng tay dơ mà ln chui, lt kinh và đt hương. Trong Pht pháp, pháp pháp đu Viên thông, hàng ngoi đo ch chp mt bên lý, người đi phn nhiu lưa tin li ngoi đo, không rõ chánh lý Pht giáo, nên không được thm nhun pháp li.

 

11. Quán Thế Âm B tát th nguyn rng sâu, tìm tiếng cu kh. Khi gp nhng tai nn: đao binh, nước la, đói kém, cào cào, ôn dch, khô hn, cướp bóc, oan gia, thú d, rn đc, ác qu, yêu m, nghip binh, k tiu nhơn hãm hi v.v... nếu phát tâm sa li làm lành, li mình li người, chí thành khn thiết nim Quán Thế Âm không xen h, thì quyết đnh s được nh sc t bi ng h tránh khi tai nguy. Nếu vn còn gi lòng bt thin, dù có xưng nim, chng qua là gieo chút căn lành v sau, không được s cng hin ti, vì chư Pht, B tát thành tu nim lành cho người, tuyt không thành tu nim ác cho người. Như không phát tâm sa li làm lành, lm lc mun đem công đc nim Pht, B tát, đ cu cho vic ác ca mình thành tu thì quyết không được cng. Rt không nên phát tâm điên đy.

Đã nim Pht, cn phi gi trn nhơn luân, gìn lòng thành kính, dt các điu d, làm các vic lành, gi lòng tt, nói li tt, làm vic tt. Vic nào mình làm được thì thiết tht mà làm, như không làm được cũng nên phát lòng lành y, hoc khuyên người có thế lc làm, hoc thy người làm sanh tâm vui đp. Tht li khen ngi vic lành cũng thuc v công đc ca tâm và ming. Nếu vic mình không th làm, khi thy người khác làm được mà sanh lòng ganh ghét, đó là tâm hnh ca k tiu nhơn. Như thế, quyết đnh phi b mt phước tn th, không được kết qu tt, cn đ ý răn cha. Rt không nên gi mt hin lương đ mua danh chuc li, tâm hnh y qu thn đu ghét, có thì mau ci, không thì nên c gng làm lành.

 

12. Có nhiu người n vì không rõ chánh lý, hoc bt hiếu vi cha m chng, khi d chng, quá cưng yêu chiu chung con, ngược đãi tôi t, hoc là m gh hiếp đáp hành h con riêng ca chng. Nhng ngườy đâu biết rng: hiếu tho vi cha m chng, kính trng chng, dy d con cái, ra ân hu cùng hàng tôi t, an i nuôi dy con riêng ca chng, chính là đo Thánh hi thế gian mà cũng là phép tc đtiên ca đo Pht. Nếu có đ công đy mà tu Tnh đ, thì quyết đnh danh d thêm nhiu, phước th bn vng, khi mng chung được Pht tiếp dn v chín phm sen. Nên biết đã có nhân phi có qu, nếu ta gieo nhân hiếu knh t ái, t nhiên s được qu hiếknh t ái. Vì người tc là vì mình, hi người còn quá hơn hi mình, cho nên mi người đu phi làm tròn bn phn, Pht tri tt s chng tri.

 

13. Tr con khi va khôn ln, phi dy cho chúng biết đo lý hiếu, đ, trung, tín, l, nghĩa, liêm, s và vic ba đi nhân qu, sáu no luân hi. Như thế là làm cho chúng hiu tâm ca mình cùng tâm chư Pht, B tát, tri đt, qu thn, mi hơi th thông nhau. Nếu khi mt nim bt chánh, làm mt vic không phi, thì các v y thy đu biết, như đi trước gương sáng, hình nh tt xu hin ra rõ ràng, không che giu được. Đã hiu như thế, tt nhiên chúng s s hãi, gng sc làm lành. Chng lun người nào, dù là con cái tôi t trong nhà cũng không nên đánh đp mng chi thô tháo. Phi tìm cách khuyến hóa, khiến cho chúng biết phng th bc trên, nhường thun k dưới, kính trng giy ch, chng xài phá cơm go, qun áo, ca tin, yêu tiếc sanh mng loài trùng kiến, không ăn vt vnh đ khi mang bnh. Nếu dy được như thế, thì mt ngày kia quyết đnh chúng s thành người lương thin. Trái li lúc con cháu còn thơ u, cha m chng chu dy d, đ mc cho chúng buông lung, khi ln lên nếu chúng nó không là k dung ngu, cũng là hàng ph loi. Chng y dù có ăn năn cũng vô ích. Li xưa nói: “Giáo ph sơ lai, giáo t anh hài” (Dy con dy thu còn thơ, dy v dy lúc ban sơ mi v), tánh tình phn ln là do nh hưởng ca tp quán, cho nên phi cn thn t bước đu tiên. Cá nhân là phn t ca xã hi, trong thiên h bình yên hay lon lc, ci ngun đu do s hin lương hoc bo ác ca con người. Vy nhng điu trên đây quan h, thiết yếu, không phi tôi bàn lun chuyn vô ích, xa vi...

 

14. n Quang tôi năm nay đã quá già yếu, tinh thn mi ngày thêm suy kém, không còn đ sc đ phúc đáp nhng bc thơ gi đến. Ch vì s lưu thông thun tin, nên xa gn lm nghe chút hư danh, gi thơ hi đo quá nhiu. Nếu tôi không đáp, vn t hơi có ph ý người gi; như mi mi đu phúc đáp, tht ra cũng không đ tinh thn. Vì thế, tôi cho in bc thơ dài này đ phúc đáp cùng khp. Trong đây, nhng điu quan h v s tu trì, cách lp thân x thế, đo th cha m, dy con cái, tôi đu nói lược qua. V sau, ai đưa tin đến hi đo, tôi đu dùng thơ này phúc đáp, hoc có vài điu đc bit, cũng ch nên thêm đôi hàng nơi bc thơ gi đến mà thôi. Như thế, đ cho đo nim đôi bên được thông nhau, mà tôi cũng đ bt s nhc mt. Nếu v nào mun hiu sut kinh nghĩa, xin thưa hi nơi các bc Pháp sư dng cao tràng pháp, tông giáo kiêm thông. Nhưng nên biết, dù thông sut kinh pháp, cũng chưa chc được thoát sanh t. Mun thoát sanh t luân hi, phi chú trng nơi s tín nguyn nim Pht cu sanh Tây phương!


TA

 

 

Đc Pht ra đi vi nhân duyên m bày chân tánh, khiến cho chúng sanh thoát vòng mê kh, ng vào bn th sáng sut, an vui. Bao nhiêu pháp môn, tt c nghĩa lý mu nhim trong mt đi giáo hóa ca đc Bn Sư, đu không ngoài mc đích y. Nhưng, tìm mt li thng tt đ mau thoát khi đường sanh t, mt pháp hp lý, hp cơ cho chúng sanh gia thi bui này, ch có môn Tnh đ. Ti sao thế? Vì trong đi Mt pháp, người tu hành b nhiu chướng duyên làm thi chuyn. Nhìn v người: Phn sc thân hay đau yếu, mng sng ngn ngi; phn tâm tánh thì nghip hoc sâu nng, trí hu ti m. Xét v cnh: Phn đi thường xy ra nn nước tai tri; phn đo li ít bc Thin tri thc dt dn, nhiu k di tu, dy đy nhng mi d đoan, tà ngoi! Cho nên trong Kinh Đi Tp, đc Như Lai huyn ký rng: Đi Mt pháp c người tu hành, song khó được mt k ng đo, ch nương nơi pháp môn nim Pht mà thoát khi luân hi...

Thi gian gn đây,  Trung Hoa có n Quang Pháp sư là bc danh đc trong tăng gii. Ngài sut thông c tông ln giáo, chuyên dùng pháp môn Nim Pht làm phương tin li mình li người. Trước tiên, Pháp sư xut gia  đnh Chung Nam, sau mt thi gian đi tham hc các nơi, li v n tích ti non Ph Đà, nơi lu tàng kinh chùa Pháp Võ. Tuy my mươi năm kh hnh, ít cùng người ngoài giao thip, nhưng du cao nhân mt phen b khách trn khám phá, ngn gió thanh bay thong khp xa gn. Biết được hnh đc ca Pháp sư, tăng tc bn phương đu ngưỡng m; có k vượt sui trèo non mà cu li ch th; có người mượn tin hng nhn mà hi li nam châm. Nhng th bút ca Ngài được hàng cư sĩ sưu tp li thành bn quyn và cho in ra vi nhan đ n Quang Pháp sư Văn Sao. Bình sanh, Pháp sư n tng sách Pht được năm triu b, tượng Pht hơn mt triu xp. Đ t ca Pháp sư đến hơn hai mươi muôn người, nhiu v nh ơn ch dy ca Ngài, được sanh v Cc lc, khi lâm chung đu có chng nghim. Năm Dân Quc th 29, Pháp sư biết trước ngày v Tây phương, ngi thoát hóa  Linh Nham Tnh Tông Đo Tràng, hưởng tui đi tám mươi và sáu mươi tăng lp. Lúc làm l trà tỳ, ba mươi hai cái răng còn nguyên, Xá Li ngũ sc hin ra rt nhiu. Sau khi Pháp sư vãng sanh, gii Pht t xut gia, ti gia cm nh đc hóa ln lao ca Ngài, hp nhau làm l truy nim và đng ý suy tôn Ngài làm v T th mười ba trong tông Tnh đ.

B Văn Sao ca Pháp sư, khi mi xut gia, tôi đã được hân hnh xem qua. Trong thi kỳ nhp tht gn đây, mt thun duyên đưa đến, tôi li có cơ hi kho duyt ln na, đ giúp s thng tn trên đường tu nim. Nhn thy trong y có nhiu đim hu ích cho người nim Pht, tôi la rút nhng đon cn thiết, phiên dch ra quc văn, ly nhan đ Lá Thơ Tnh Đ. Đáng l trong quyn này tôi phi ph thích đ nhn rõ mt vài đim thiết yếu, và gii đôi ch khó hiu vi người sơ cơ, nhưng vì sc khe kém nên ý nguyn không thành. Tôi li thn mình nghip hoc sâu dy, đường tu không thy tiến b, bt buc phi đ tinh thn nhiu hơn trong s nhiếp nim, nên khi phiên dch li l thô sơ, đã chng din t được ý nghĩa thâm thúy ca Pháp sư, li làm ln mt xanh ca làng hc Pht! Tuy ni dung còn nhiu khuyết đim, nhưng nhân duyên đã thế, âu cũng xin tùy phn tùy sc mà dâng chút ngu thành! S phiên dch đây, vi tôi, ch có mc đích góp phn khuyến tn ln nhau cùng các bn sen trên đường Cc lc.

Nếu công vic này có th giúp quí v phn nào nơi s kiến gii cũng như tu nim, xin đem kết qu y hi hướng trang nghiêm Tnh đ cho bơn ba cõi và pháp gii hu tình.

 

Liên Du Thích Thin-Tâm



1/Thơ Đáp Cho Cư Sĩ Đng Bá Thành (I - II)

 

 

I

 

T bui tương ng đến nay, thm thoát đã sáu năm, không nhng tuyết sương thay đi, mà vn nước cũng khác xưa. Cnh đi vô thường, tht nên thương cm! Tiếp được thơ, biết cư sĩ không xao lãng Tnh nghip, tôi rt vui mng! Nhưng trong thơ thy nói thân tâm không an vì cnh nhà thiếu thn, hay đau yếu dây dưa mà không an chăng...?

Nếu cnh nhà thiếu kém, thiết tưởng cư sĩ nên lui mt bước. Phi nghĩ rng: gia đi, người hơn ta vn nhiu, song k thua ta cũng không ít; ch cu khi đói lnh, mơ chi đến giàu sang? Thng như cư sĩ biết vui theo s phn, an vi cnh duyên, hãy còn có th chuyn phin não thành B đ, lo gì không đi được u bun thành vui đp? Nếu đau yếu dây dưa, nên thng nim thân là ci kh, sanh lòng chán lìa, gng tu Tnh nghip đ cu quyết sanh v Cc lc. Các đc Như Lai đu ly s kh làm Thy mi thành đo Pht, chúng ta cũng phi ly đau bnh làm thuc đ cu gii thoát khi no luân hi. Nên biết phàm phu đ nghip hoc ràng buc, nếu không có nhng ni kh cơ cùng tt bnh... tt s theo đui theo trường sc, thinh, danh, li, khó mà buông b. Trong lúc đc ý như thế, ai chu quay đu nhìn li, tưởng đến s chìm đm v sau ư? Thy Mnh T nói: “Người nào sp lãnh mt trng trách thiêng liêng, trước tiên phi nhc thân, kh trí, hoc đói khát, khn cùng, vic làm tht bi. Có như thế, k y mi rèn luyn được ý chí nhn ni, vng bn, tài năng cao siêu xut chúng”. Thế thì biết, con người được thành lp, phn nhiu nh nghch cnh, và trong trường hy, ta ch nên an lòng thun chu mà thôi. Nhưng trng trách ca Thy Mnh nói, ch là tước v  đi, mà còn phi kh nhc như thế mi làm nên; hung na k phàm phu thp thi như chúng ta, mun gánh vác công vic trên thành đo Pht, dưới đ chúng sanh đó ư! Nếu như không b mt chút điên đo vì nghèo bnh, thì tình trn lng ly, Tnh nghip khó thành, gương lòng s b ti m, nhiu kiếp trôi lăn trong ác đo, s gii thoát bui tương lai chưa biết đâu là kỳ hn!

Người xưa đã bo: “Ví chng mt phen sương thm lnh. Hoa mai chi d thong mùi hương!” Li này là ý t trên đây vy.

Cư sĩ nên bn chí nim Pht đ mau tiêu túc nghip, ch sanh lòng phin não ri oán tri trách người, cho nhân qu là hoang đường, chê Pht pháp không linh nghim. Nên biết chúng ta t vô th đến nay, gây nghip ác vô lượng vô biên, như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Gi s nghip ác có hình tướng, mười phương hư không chng th dung cha hết”. Thế thì s tu trì lơ là chút ít, đâu d dt tr hoc chướng hết được. Đc Thích Ca, A Di Đà vì thương xót chúng sanh không đ sc dt nghip, riêng m pháp môn “nương nh Pht lc, đi nghip vãng sanh”. Ân đy tht vô cùng rng ln, dù tri đt cha m cũng khó sánh trong muôn mt. Vy cư sĩ nên hết lòng sám hi, t có th nh Pht gia b khiến cho nghip tiêu, thân tâm yên n. Như bnh kh bc bách không th nhn chu, thì hôm sm ngoài thi nim Pht, cư sĩ nên chí thành nim danh hiu đc Quán Thế Âm. Vì vi bn nguyn tm thinh cu kh, B tát hin thân khp mười phương quc đ; chúng sanh trong lúc nguy biến nếu có th trì tng kính ly, Ngài s tùy cơ cm mà giúp đ, khiến cho thoát kh được vui.

V môn Nim Pht, tuy gin d nhưng rt rng sâu. Điu cn yếu là phi chí thành tha thiết, thì đo cng mi thông nhau, hin đi mi được s li ích chân tht. Nếu bê tr biếng lười, không chút chi kính s, tuy cũng gieo nhân gii thoát v sau, nhưng qu báo ca ti khinh ln tht không th tưởng nghĩ! Dù có chút ít phước dư khi đa vào ác đo, được sanh v cõi Tri, Người, cũng quyết khó d nơi Liên Trì hi hi.

Đến như tượng Pht, phi tôn kính như Pht sng không nên xem là đt, g, giy, đng. Kinh đin là Thy ca chư Pht ba đi, là pháp thân Xá Li ca Như Lai, cũng phi kính như Pht, không nên xem là loi giy mc. Khi đi trước kinh tượng, phi như tôi trung th chúa Thánh, con tho đc di ngôn. Được như thế ti nghip nào không tiêu, phước hu nào chng đ? Hin nay hàng sĩ phu hc Pht vn nhiu, song hu hết đu đc văn gii nghĩa đ cung cp cho ngun bin lun, t ra mình là mt nhà thông hiu giáo lý; xét v ch chí thành cung kính, y giáo tu trì, tht là ít có người! Tôi thường cho rng: Mun được s tht ích ca Pht pháp, phi tìm nơi lòng cung kính. Có mt phn cung kính thì tiêu mt phn ti nghip, thêm mt phn phước hu, hai ba phn cho đến mười phn cung kính cũng như vy. Trái li, nếu càng khinh thường thì ti chướng càng thêm, phước hu càng suy gim. Như thế chng đáng kinh s đau tiếc lư? Khi gp bè bn, cư sĩ nên đem ý này khuyên bo nhau, đó là mt món pháp thí rt ln. Pháp môn Tnh đ, như thông hiu được, vn là điu rt quí, bng có ch chưa rõ, cũng c tin chc li ca Pht, T ch nghi ng, nghi thì cùng vi Pht cách xa, khi lâm chung quyết khó được tiếp dn. C đc cho rng: “Pháp môn Tnh đ ch có Pht vi Pht mi rõ cùng tn, bc đăng đa B tát cũng không th thu hiu hết”. Như bc đăng đa Đi sĩ còn không th thu hiu hết, ta đâu nên đem tâm lượng phàm phu mà c đoán sai lư? Nếu mun nghiên cu, nên xem Tnh Đ Thp Yếu; quyn này do Ngài Ngu Ích Đi sư rút nhng tinh hoa trong các kinh sách Tnh đ son ra, rt hp thi cơ, đáng lit vào bc nht. M đu quyn là tp Di Đà Yếu Gii, t trước đến gi v Kinh A Di Đà, ch có nhng li chú thích này là siêu tuyt, phi tuân gi không nên khinh thường. Người thông minh đi nay, tuy hc Pht pháp nhưng vì chưa gn gũi vi bc c nhãn tri thc, nên hu hết đu chuyên trng lý tánh, bác b s tu và nhân qu. H đâu biết, nếu s tu nhân qu đã mt, lý tánh cũng không còn. Li có nhng k tài cao, văn t qu thn kinh đng mà xét đến hành vi thì không khác chi hng vô trí thc, truy nguyên đu do bác b s tu nhân qu mà ra. Mi t y khiến cho nhiu người lm lc noi theo, đó là dùng thân báng pháp, ti li không ngn! Bc thượng trí thy thế càng thêm xót thương đau đn! B Pháp Uyn Châu Lâm nói rõ nhân qu, s lý đu đy đ, nhng tích báo ng cũng tinh tường, có th khiến cho người xem kinh s, dù  nơi nhà ti cũng như đi trước Pht, tri, không dám khi nim ác. Vi b này, bc thượng, trung, h đu được li ích, chc không đến ni lm đường, chp lý b s mà theo thói tà vy, ngông cung. Ngài Mng Đông đã bo: “Người khéo nói tâm tánh, quyết không b nhân qu; k tin sâu nhân qu tt rõ sut tâm tánh, đó là l đương nhiên”. Li ca Ngài là mt chí lun ngàn đi, cũng là mũi kim đâm trên đnh đu nhng k cung hu.

B Pháp Uyn, các nơi lưu thông Pht pháp đu có bán. V s li ích, khi đc xong s t rõ, cư sĩ nên khuyên tt c bn tri giao mua xem. Mùa thu ri, lnh đ lên viếng Ph Đà, tôi có đem nhng điu thành knh đ khuyên nhau, nhưng không biết y có cho li tôi là thiết thc chăng?

 

II

 

Được thơ, xem qua d khiến cho người vui đp! Thu xưa C Bá Ngc đến năm mươi tui, nhìn li năm bn mươi chín, thy mình còn sai lm. Đc Khng T lúc gn by mươi, ước được sng thêm lâu đ hc tinh tường b Kinh Dch, cho khi điu li ln. S hc ca Thánh hin tht đã đi cùng đến ch khi tâm đng nim! Hc gi đi nay ưa theo t chương, ít ai nghĩ đến đim chánh tâm, thành ý. Bi thế, tuy trn ngày đc sách mà không rõ ý ch ca Thánh hin, ngôn ng hành vi so vi ch hc trái rt xa, như sáng, ti, vuông, tròn không th cùng dung hp. y là chưa nói đến li lm ca tâm nim, nếu k ra được thì biết bao nhiêu!

Kinh Pht dy người thường tu phép sám hi, đ kỳ cho dt hết vô minh, thành đo B đ. Cho nên, đc Di Lc tuy đến ngôi Đng giác, còn phi ngày đêm sáu thi l mười phương Pht, đ cu vô minh hết sch, tròn chng pháp thân, hung na là hng phàm phu nghip lc sâu nng ư? Nếu không biết h thn, sám hi, tuy bn tánh đng vi chư Pht, nhưng b hoc nghip che lp, không th hin hin, ví như tm gương báu lâu đi, chng nhng không ánh sáng mà th gương cũng b khut mt. Nếu biết gương sn tánh sáng, gia công lau chùi mãi, ánh sáng ln phát cho đến khi rc r cùng cc, thành ra mt vt rt quí trong đi. Nên biết ánh sáng y sn có, không phi lau chùi mà được, nếu được thì lau đá gch cũng ưng chói sáng. Li phi biết gương tuy sn đ ánh sáng, nhưng nếu không lau chùi thì cũng không th chói sáng được. Tâm tánh chúng sanh cũng thế, tuy đng vi Pht, nhưng nếu chng đi d làm lành, b trn hip giác, thì tánh đc sn đ đó không th l bày. Đem tâm thc sn đ tánh Pht đó to nên nghip kh nhiu kiếp đm chìm, cũng như nhà ti có cha ca báu, đã không dùng được li b tn thương, há chng đau tiếc lư? Pháp môn Nim Pht chính là phép mu b trn hip giác tr li ci ngun vy. Người ti gia vì b vic đi ràng buc, khó n trong tnh tht tham thin tng kinh, vi pháp môn này rt là tin li. Mi người đu có th tùy sc tùy phn l tng trì nim đ hi hướng vãng sanh. Ngoài gi khóa tng chánh thc, khi đi, đng, nm, ngi, nói, nín, đng, tnh, ăn cơm, mc áo, tt c thi, tt c ch, đu nên nim Pht. Nhưng,  nơi sch s, khi nghiêm kính, nim thm hay ra tiếng đu được. Nế ch không sch s (như nơi đi tiu tin), hoc khi không nghiêm kính (như lúc ng ngh, tm gi), ch nên nim thm. Khi nm ngh, nếu nim ra tiếng, đã không cung kính li lao hơi, lâu ngày thành bnh. Nim thm công đc đng như nim ra tiếng, nhưng cn phi rõ ràng, tha thiết và đng xao lãng.

Cư sĩ biết phát l sám hi điy rt hp vi pháp môn Tnh đ, vì l tâm tnh thì cõi Pht mi thanh tnh. Nhưng đã sám hi, tt c phi sa li làm lành, nếu không thì thành ra nói suông chng được tht ích. Đến như mun không tham luyến cnh ngoài, chuyên nim Pht, được nht tâm, cũng chng có pháp chi kỳ l, ch đem mt ch chết dán nơi đu, treo nơi lông mày, thường nghĩ rng: “Ta t vô th đến nay, gây nghip ác không lường, không ngăn, gi s nghiy có hình tướng, mười phương hư không, chng th dung cha. Duyên đâu may mn, nay được thân người li nghe Pht pháp, nếu không mt lòng nim Pht cu sanh Tây phương, khi hơi th dt ri, do nghip ác cũ chc khó khi sa đa vào Đa ngc. Chng y phi chu nhng s kh cùng cc, như vc du lò la, rng kiếm non đao, không biết tri bao nhiêu kiếp mi xong. Khi ra khi Đa ngc, bi nghip chưa dt, li đa vào loài Ng qu, bng rt to ln, c hng nh như cây kim, trong ming thường tuôn ra la, nhiu kiếp đói khát, không nghe được tên nước ung, cùng không có lúc tm no lòng. Hết kiếp Ng qu, li đa vào no Súc sanh, hoc đ cho người dùng ci ch, hoc b bán vào lò tht. Khi được làm người thì ngu si không trí, d b to nghip, khó ni làm lành, chng my lúc li b đa na. Nghip cũ tr chưa xong đã to nghip mi, c mãi luân hi trong sáu đường tri qua kiếp s nhiu như bi nh, mênh mang bin kh không biết đâu là bến b”. Nếu thường xét nghĩ như thế, s tu hành s được chuyên nht. Thu xưa Trương Thin Hòa, Trương Chung Quì lúc sp chết, tướng Đa ngc hin, nim Pht vài tiếng, lin thy Pht đến tiếp dn vãng sanh. S li ích như thế, trn mt đi giáo hóa ca Pht, trong trăm ngàn muôn c pháp môn, ch th môn Nim Pht. Tôi thường cho rng: “Chín cõi chúng sanh ri pháp này, trên khó ni viên thành qu giác. Mười phương chư Pht b pháp môn này, dưới không th đ khp qun mê”. Nếu cư sĩ lòng tin thu đáo, tha thiết vì s sanh t không móng mt nim nghi hoc, thì tuy chưa ra khi đi ác trược, đã chng phi là ngườ lâu trong cõi Ta bà, tuy chưa đến Liên bang, nhưng s là khách mi ca min Cc lc. T đây, khi thy người hin phi gng làm cho bng, gp vic nhơn đng nên thua nhượng, đâu n dn dà tr ni đ lm mt lúc, l muôn đi hay sao? Người có huyết tánh, chc không chu sng làm thây đi tht chy, chết đng mc nát vi c cây. Vy cư sĩ phi nên c gng.

Li, nim Pht tuy quí  chuyên nht, nhưng cư sĩ trên còn cha m, dưới có v con, đành rng không nên quá vng cu s giàu sang, song bn phn trong gia đình cũng lo sao cho tròn, không phi tu hành là b tt c. Nếu b tt c mà cha m v con không thiếu thn thì được, bng chng thế, đã trái vi đi li trái vi đo, điy cũng nên biết qua. Phn làm con, phi đem s tu hành khuyên cha m, nếu song thân biết nim Pht, được sanh v Tây phương thoát no luân hi, thì đo hiế đi không sao sánh kp. Như có k nào đem pháp môn Tnh đ khuyên nhiu người tu nim thì công đc giáo hóa s v phn mình, sen vàng bui tương lai ch nơi Thượng phm.


2/ Thơ đáp Cư Sĩ Đng Tân An

 

 

Li thnh ích ca cư sĩ, tôi tht khó đi đáp! Ti sao thế? Vì chí hướng ca cư sĩ ln, kiến thc ca tôi nh, ln nh không đng, cơ giáo tt khó hp nhau. Tuy nhiên, trong tht tướng Nht tha, tìm tướng ln nh không th được. Nơy, nói ln thì ln, nói nh thì nh, ln nh vn đy đ tánh pháp gii. Cái nh ca tôi biết, li bao trùm tt c pháp trong mười cõi pháp. Ngài Thin Đo Hòa thượng nói: Nếu mun hc v Gii, tt c pháp t phàm phu đến Pht đa đu nên hc. Như mun hc v Hnh, nên la mt pháp hp lý hp cơ, gng sc tinh chuyên mi mau được tht ích. Chng thế thì dù tri qua nhiu kiếp cũng khó thoát ly. Pháp hp lý hp cơ y không chi hơn dùng lòng tín nguyn, trì danh hiu Pht cu sanh Tây phương. Mun tìm hc, nên y theo Kinh Di Đà Yếu Gii và các sách Tnh đ.

Pht giáo là mt pháp công cng trong mười phương pháp gii, ai cũng nên tu và đu có th tu. Bi chưa thy rõ bn sc ca Pht giáo, mt nhóm Nho sĩ lp lun mù quáng rng: Đo Pht b nhơn luân, hi chánh lý! Ti sao mà biết h sai lm? Vì đc Pht đi vi k làm cha nói lành, vi con nói tho, vi vua nói nhân, vi tôi nói trung, cho đến chng v kính yêu, anh em hòa thun; tt c li hay hnh t đi, trong Kinh Pht đu nói rành r. Thế thì cùng vi Nho giáo có khác ch nào? Hơn na, v đim ch rõ lý nhân qu ba đi, trong đo Nho không thy nói. Đến như nhng vic: dt hoc chng chơn, đy đ B đ, v nơi vô đc, thì Nho giáo phi kém thua xa. Tiếc cho hàng Nho sĩ kia chưa thy, nếu h được xem k và hiu sâu lý y, chc s đau thương rơi l, tiếng khóc đng cõi đi thiên, hi hn vì mình đã khinh báng Pht giáo! Nhưng dùng li báng pháp ti nh, dùng thân báng pháp ti ln vô cùng! Đi nay có nhng ngườưa nói Đi tha cho rng mình đã ng đo, bo: Ta chính là Pht, cn gì phi nim Pht? Phin não tc B đ, cn gì dt phin não? Dâm, gin, mê là gii, đnh, hu, cn gì tr b dâm, gin, mê? Li nói ca h tht cao trên chín tng mây, vic làm xét l dưới chín lp đt! Nhng người như thế, gi là oan gia ca nhà Pht, so vi k không biết Pht pháp mà khinh báng, ti còn nng hơn muôn phn. Vi hng sau này, lun v công h nghiên cu Pht pháp chng phi toàn là vô ích, nhưng ch làm cái nhân được đ v sau. Còn ti dùng thân báng pháp quyết phi chu kh trong đường ác đo không biết bao nhiêu kiếp s.

Cư sĩ nên nghiên cu kinh lun Đi tha cho ch hiu biết được đy đ. V phn tu, phi ly tín nguyn, trì danh làm chánh hnh. Đến như lúc cư x bình thường, hoc s làm ti không hay, gim phước không biết, nên đc b An Sĩ Toàn Thơ và Pháp Uyn Châu Lâm tt s nm được khuôn phép đ gi gìn, tâm nim không dám buông lung na. Thng hoc còn s mình kim soát không kp, nên y theo phép công quá cách ca đc Phù Hu Đế Quân mà thc hành, thì có th vượt phàm lên Thánh, dt hoc chng chơn. Như thế nước Trung Hoa này, cư sĩ s là người ít ai hơn được.


3/ Thơ đáp Cư Sĩ Cao Thiu Lân (I - II)

 

 

I

 

Trong bc thơ gi đến, thy nói cư sĩ đang nhiếp tâm nim Pht, ly Kinh Pháp Hoa, và gng tr li mà chưa được như ý, nghĩ mun y theo phép công quá cách đ t kim đim mi ngày. Bao nhiêu điy, đ chng s tu hành ca cư sĩ gn đây là thiết tht vì mình, không như nhng k t khi di người, phô trương b ngoài đ cu danh d. Như thế còn gì hay hơn, tôi xin tùy h.

Phép l tng trì nim, phi ly lòng thành kính làm ch. Nếu thành kính cùng cc, dù  đa v phàm phu công đc chưa được viên mãn, nhưng kết qu cũng khó nghĩ bàn! Trái li thì, tuy l tng, xét ra khác gì múa hát, dù có bày nét kh, vui, thương cm, đu là gi trang vì chng phi t nơi đáy lòng phát l. Nếu có công đc, chng qua là si phướ cõi Tri, Người, mà chính đó là ch y c đ gây nghip ác, gieo nên qu kh vô lượng v sau. Nên đem điu này t khp vi đng bn, khuyên nhau chơn tht tu hành đ s li ích được lan rng. Cách thc ly kinh ca cư sĩ lp ra, v lý vn không ngi, nhưng v s, nếu ly suông, phi nim: Nam Mô Đi Tha Diu Pháp Liên Hoa Kinh, Pháp Hoa Hi Thượng Pht, B tát. Nim xong cúi xung ly, va tưởng bài k l kinh:

“Pháp tánh chơn không t hư không,

Pháp bo thường tr khó nghĩ bàn!

Nơi trước Pháp bo hin bóng con,

Như pháp mt lòng nương kính ly.”

Li tưởng toàn b kinh và chư Pht, B tát  trong kinh đu phóng ánh sáng soi đến thân mình cùng các loài hu tình trong pháp gii. Nếu ly tng ch, phi nim: Nam Mô Đi tha Diu Pháp Liên Hoa Kinh (...) t Pháp bo. C ly ch nào thì nim ch y, t ch: Như, th, ngã, văn... cho đến hết b kinh đu nim như thế. Nhưng phép quán tưởng chng phi d, nếu hiu lý không rành hoc tâm thc ri lon, s e b nhng vic ma. Điu cn yếu phi ly s chí thành cung kính làm ch, nếu quán tưởng được thì quán, bng không, nên đem hết lòng thành mà ly, công đc cũng vô lượng. Theo chương trình ca cư sĩ đã lp: đi trước kinh mà ly, khi ly xung tưởng k, lúc đng lên nim Pht, quán Pht..., tt hơn là nên đ kinh trước bàn Pht cúng dường ri chuyên nht l Pht A Di Đà. Ch cho rng công đc duyên tưởng mt v Pht không rng ln bng duyên tưởng nhiu v Pht. Nên biết Pht A Di Đà là pháp gii tng thân, bao nhiêu công đc ca chư Pht trong mười phương pháp gii, nơi mt đc Pht A Di Đà đu đy đ c. Ví như lưới châu ca tri Đế thích, ngàn châu hin đ trong mt ht châu, mt ht châu in bóng khp ngàn châu, mi châu đu dung nhiếp ln nhau, không dư không thiếu. Nếu bc Đi sĩ tu hành đã lâu, không ngi gì duyên cnh rng nhiu, cnh càng nhiu tâm càng chuyên nht. Trái li k mi hc đo, nếu duyên cnh nhiu tâm thc s ri lon, và người chướng sâu hu cn có khi còn b nhng vic ma. Vì l y, Thế Tôn ta và chư T đu bo phi mt lòng chuyên nim Pht A Di Đà, đi khi nào chng được Tam mui thì trăm ngàn pháp môn, không lường diu nghĩa thy đu đy đ. Người xưa nói: Tm được bin c, tc là dùng nước trăm sông; đến đin Hàm Ngươn còn hi Trường An chi na? Li này có th gi là mt tượng trưng rt đúng cho l trên đây vy.

Đến như s dt d làm lành, thành tht kim đim ly mình, tuy không chi hay hơn phép công quá cách; nhưng nếu tâm không chuyên chú nơi s thành kính, dù mi ngày có ghi công chép li cũng là vic suông. S công quá cách  vùng này chưa thy có. C theo ch hiu ca tôi, ch nên gi lòng thành kính trong tt c thi, đng đ mt nim không tt ni lên, khi đi đãi vi người phi luôn luôn gìn lòng trung th. Được như thế, dù vng nim có thot khi cũng lin t biết, biết ri lin tr, tt ba nghip không b lôi cun vào đường lm lc. Nhng k tiu nhơn b ngoài hin lành, trong lòng ác đc, cho rng không ai biết mình; đâu ng người phàm dù không biết, song bc tu hành đc đo, thy hiu rõ ràng. Li, chư thiên, qu thn tuy chưa đc đo, nhưng nh qu báo có tha tâm thông, nên cũng hiu biết được. Nói gì là các bc Thanh văn, Duyên giác, B tát và chư Pht, tha tâm đo nhãn thy sut ba đi như xem nơi lòng bàn tay đó ư? Mun không biết, ch có mình không biết thì được, nếu mình biết thì tri đt, qu thn, Pht, B tát tt rõ biết. Hiu nghĩa này, tuy  nơi nhà ti, ch vng cũng không dám móng nim ác. K ngoan c nếu được biết lý trên đây cũng t h thn, la người chơn tu hay sao? Như mun bt li phi ghi nh đim này, hng đem lòng kính s. Nhưng đây là ước theo ch hiu biết cn ct ca tình đi mà nói, tht ra tâm ta cùng mười phương pháp gii đng th dung hp, vì ta mê nên s thy biết ch cu riêng mình. Mười phương chư Pht chng sut tng tâm, tt c chúng sanh trong pháp gii khi lòng đng nim, các Ngài đu thy biết rõ rt như hình tượng in bóng trong gương. Đó là vì chư Pht đã vào bn th bình đng chân như, mình và người không khác.

Nếu cư sĩ rõ sut nghĩa này, có th t dè dt s hãi, gi lòng kính thành, trước tiên còn gng sc tr vng, lâu ngày vng nim s tiêu mòn không khi na.

 

II

 

 Được thơ, biết gn đây cư sĩ tu trì thân thiết, xét mình sa li noi du Thánh hin, chng phi cu ly hư danh, tôi ly làm vui đp! Mun hc Pht, T, thoát sanh t, nhng đim đu tiên là: h thn, sám hi, dt d, làm lành, gi trai gii và thường t răn nhc. Li cn phi đt đến ch tht, hết sc mà làm, bng không thì thành s d trong gi di. Cho nên, biết không khó, làm mi chính là khó! Nhiu bc thông minh gia đi, vì nói có làm không, thành th lung qua mt kiếp, ung chơi non báu đi v tay không, tht rt đáng đau tiếc! Vng nim ly lng là do bi chưa chơn thiết gi gìn chánh nim, nếu c chuyên chú mt cnh thì vng tưởng s đi thành chánh trí. Cho nên, tr đc sách thì gic cướp đu là con đ, tr tht sách tuy k tâm phúc cũng hóa oan gia.  đa v phàm phu, ai li không có nghip hoc? Nhưng khi bình thường nếu đ phòng trước, lúc gp cnh duyên, phin não mi không bo phát; dù phát khi cũng có th lin t biết mà dt tr. Nhng cnh làm duyên đ khi phin não rt nhiu. Nhưng mnh nht là tin ca, sc đp và chuyn ngang trái bt thường. Nên biết ca tin phi nghĩa hi hơn rn đc, thì không còn lòng tham mun khi thy ca. Giúp đ người chính là xây đp nn phước đc cho mình v sau, biết như thế, khi có ai hon nn cu cu, không vì tiếc ca không cho, mà khi lòng phin não. V sc đp, lúc đi trước người xinh tt như hoa, t ngc, cho đến k k n, nên tưởng đó là ch, hoc em rut, sanh lòng cu đ xót thương, tt không b sc làm đng nim ái dc.  gia đình, chng v phi kính nhau như khách, nên xem thê thiếp là ngườơn giúp đ ln nhau và vì s ni dõi dòng h, mi không b sc dc hi mình. Đến như gp vic ngang trái nên sanh lòng xót thương dung th cho k không biết li lm, ch tranh chp hơn thua. Li tưởng rng: kiếp trước mình đã tng làm kh hi người, hôm nay b vic này là tr n tin khiên; nghĩ như thế thì t nhiên vui v, không sanh lòng nóng gin mun báo cu. Song, nhng phương pháp trên đây là đ áp dng vi k sơ cơ, nếu bc Đi sĩ tu hành đã lâu, bao nhiêu phin não đi thành tng tâm sáng sut, muôn cnh vn không tht tánh, nhng vic tn hi li ích đu t nơi người mà thôi.

Đến như lun v pháp môn Nim Pht thì Tín, Nguyn, Hnh là tông yếu. Ba món này đy đ, quyết đnh được vãng sanh. V phn Tín, Nguyn, nên đ tâm chú trng, phi mt lòng cu v Tây phương, ch mong kiếp sau tr li làm người hưởng s giàu sang. Chng nhng không mun th thân vua  cõi Tri, Người, dù cho thân mt v cao Tăng nghe mt hiu ngàn, được đi tng trì, m rng pháp hóa làm li ích chúng sanh, cũng xem như gc ti không khi niưa thích (vì đó là ng ch chưa phi chng, vn còn b luân hi và có th đa lc). Được như thế thì tín nguyn ca ta mi cm đến Pht, và th nguyn ca Pht mi có th nhiếp th ta. Nên biết cõi Cc lc chng nhng sc phàm phu không th đến, mà chính bc Thánh Tiu tha cũng không đến được, vì nơy là cnh bt tư nghì ca Đi tha. Bc tiu Thánh hi tâm v Đi tha mi có th đến, còn phàm phu nếu không tín nguyn cm Pht, dù cho có tu tt c thng hnh và hnh mu trì danh cũng không th vãng sanh. Cho nên, tín nguyn rt là cn yếu. Ngài Ngu Ích nói: “Được sanh cùng chăng, toàn do tín nguyn có hay không; phm sen cao thp, đu bi trì danh sâu hoc cn”. Đây là mt lun án st, dù ngàn Pht ra đi cũng không thay đi. Vi l này, nếu cư sĩ nhn chc, mi có phn nơi cõi Tây phương.

Như nim Pht khó quy nht, phi nhiếp tâm nim k. Phép nhiếp tâm không gì hơn chí thành, tha thiết, nếu không chí thành mà mun quy nhy là điu rt khó. Đã chí thành nim còn chưa thun, phi lng tai nghe. Không lun nim thm hay ra tiếng, đu phi nim khi t nơi tâm, tiếng ra t nơi ming ri li vào tai (dù nim thm nơi ý vn có tướng ming nim). Tâm và ming rành r, tai nghe rõ ràng nhiếp tâm như thế, vng nim t dt. Nếu làn sóng vng tưởng ni trào quá mnh, nên dùng phép Thp Nim Ký S đem hết tâm lc chuyên vào câu nim Pht, thì vng tưởng b đàn áp không có ch xen h đ ni lên. Phép này nhiếp tâm rt tuyt diu, thu xưa nhng v hong dương tông Tnh đ chưa nói đến là vì căn cơ người thy còn sáng l, không cn dùng cách này vn có th nim Pht được quy nht. n Quang tôi vì tâm khó điu phc, nhiu phen dùng th mi biết là hay, nguyn cùng nhng người đn căn đi sau y theo tu tp đ được đng sanh v Cc lc.

Thp Nim Ký S là khi nim Pht phi ghi nh rành r t mt đến mười câu, hết mười câu lin tr li mt, c như thế xoay vn mãi. Nhưng phi nim trong vòng mười câu mà thôi, không được hai hoc ba mươi câu, li không nên ln chui, ch dùng tâm ghi nh. Nếu nh nim luôn mt mch mười câu thy khó, thì phân làm hai đon, t mt đến năm, t sáu đến mười. Nếu hoc còn thy kém sc li chia làm ba hơi, t mt đến ba, bn đến sáu, by đến mười. Cn đ ý: Nim, nh và nghe phi rõ ràng, vng nim mi không xen vào được. Dùng phép này lâu, s được nht tâm. Nên biết phép Thp Nim Ký S cùng phép Thp Nim ca Ngài T Vân, v phn nhiếp vng thì đng, phn dng công li rt khác. Phép Thp Nim tùy theo hơi người dài ngn, không lun được bao nhiêu câu Pht, c mt hơi k là mt nim. V phép này mi bui sm mai, ch dùng trong mười nim mà thôi, nếu quá s y lâu ngày s thành b lao hơi. Phép Thp Nim Ký S thì nim mt câu biết mt câu, mười câu biết mười câu, t mt đến mười ri tr li, dù cho mi ngày nim cho đến my muôn câu cũng ghi nh như thế. Nim như vy không nhng tr được vng, li có th dưỡng thn, vì tùy sc tùy ý, hoc chm hoc mau, không chi tr ngi. Li, so vi cách nim ln chui ghi s, phép Thp Nim Ký S li ích hơn nhiu vì ln chui thân mi nhc, tinh thn xao đng, còn cách này thì thân nhàn mà tâm an. Ch nhng khi nào làm vic, hoc khó ký s, nên khn thiết nim suông, đi lúc xong vic li nhiếp tâm ký s. Như thế thì vng tưởng không còn tung hoành, tâm cnh an tr vào câu nim Pht.

Đc Đi Thế Chí B tát nói: “Nhiếp c sáu căn, tnh nim ni luôn, được Tam Ma Đa, đây là bc nht”.Li này vi hng li căn thì không cn lun, nếu k đn căn như chúng ta, b phép Thp Nim Ký S mà mun nhiếp sáu căn, ni tnh nim, tht khó vô cùng! Cách nim Pht ln chui ch nên dùng trong nhng khi đi đng, còn lúc tnh dưỡng thn, nếu ln chui thì do tay đng, thn cũng không an, lâu ngày có th sanh bnh. Khác hơn thế, phép Thp Nim Ký S lúc đi, đng, nm, ngi đu dùng được, nhưng khi nm ch nên nim thm, nếu ra tiếng đã không cung kính li b lao hơi, nên nh k.

Cư sĩ tui đã năm mươi, nếu mun được gii thoát trong hin đi, phi chuyên chú nơi môn Tnh đ. Kinh Kim Cang, Pháp Hoa nên tm gác mt bên, đi khi nào lý Tnh đ thông sut, nim Pht được nht tâm ri s hay. Nếu bây gi va nghiên cu va tu hành, e cho thi gian có hn, trí lc không kham, bên nào chng thành bên nào, hai s li ích cùng b mt c đó.


4/ Thơ gi Cư Sĩ Trn Tích Châu

 

 

Đc Như Lai ra đi nói pháp đ sanh, vn mun cho tt c loài hu tình đu thoát khi s sng chết, chng ngay đo B đ. Nhưng vì chúng sanh căn cơ sai khác, không th hoàn toàn tha mãn tm lòng xut thế ca Pht, nên đng T Nghiêm ch còn có cách tùy theo cơ nghi mà ln lượt dn d. Vi bc đi căn, đc Thế Tôn vì nói Pht tha ch ngay bn tánh, khiến cho mt đi tròn chng qu Pht, như Thin Tài trong Kinh Hoa Nghiêm, Long N trong Kinh Pháp Hoa. Bc th, thì Ngài vì nói B tát, Duyên giác hoc Thanh văn tha khiến cho ln lượt tu tp và chng qu. Bc th na, Ngài li vì nói ngũ gii, thp thin, khiến cho không đa vào đường ác, th thân Tri, Người, ln lượt gieo ht ging lành, tùy theo thin căn ln nh, v sau trong pháp tam tha do sc huân tp cũ mà phát ra hin hnh tu tp; hoc có k y theo B tát tha tu sáu đ muôn hnh, chng được pháp thân, hoc có k y theo Duyên giác, Thanh văn tha, ng mười hai nhân duyên và pháp T Đế mà dt hoc chng chơn. Các pháp môn y tuy có ln, nh, mau, chm không đng, nhưng đu phi dùng sc mình tu tp sâu dy mi có th thoát no luân hi, chng vào bn tánh. Nếu hai món hoc kiến, tư còn chng mt my tơ thì gc sanh t vn chưa tr được. Dù cho sc đnh hu có sâu, cũng y như cũ theo đường luân chuyn. Như bc A na hàm còn phi sanh v cõi tri Ngũ Bt Hoàn, tri qua nhiu kiếp mi chng qu A la hán. Đến đa v này thì gc sanh t mi dt hn. Nhưng đó cũng ch là qu nh ca hàng Thanh văn, còn phi hướng v no đi B đ, nương theo bn nguyn th sanh trong mười phương thế gii, rng tu sáu đ muôn hnh, đ trên cu đo Pht, dưới đ chúng sanh. T đó tùy nơi công hnh ca mình sâu cn hoc chm mau, mà ln lượt chng vào Thp tr, Thp hnh, Thp hi hướng, Thp đa, ri Đng giác. Đến v này li còn phá mt phm vô minh, chng mt phn Tam Đc mi vào ngôi Diu giác mà thành Pht.

Trong mt đi thi giáo ca Như Lai, các pháp môn tuy không lường không ngn, song đa v chng nhp rt li không qua nhng ngôi th trên đây. Như bên tông Thin ch ngay bn tâm, thy tánh thành Pht, rt là tròn tt mau l; nhưng đó là ước theo pháp thân saün có, không tri qua nhân qu tu chng mà lun, nếu y theo đa v tu chng thì cũng không gì khác vi bên Giáo. Gia đi Mt pháp này, bc Thin tri thc rt ít, căn người li hèn kém, tìm được k t ng còn khó thay, hung chi là tht chng? Đc Như Lai biết chúng sanh nếu ch nương nơi sc mình rt khó được gii thoát, nên ngoài các pháp môn, li m riêng môn nim Pht cu sanh Tnh đ. Như lòng tín nguyn được chơn thiết, dù cho k phm ti Ngũ nghch Thp ác khi sp chết tướng Đa ngc hin, có bc Thin tri thc dy bo nim Pht mười câu hoc mt đôi câu, cũng được nh sc t ca Pht tiếp dn vãng sanh, hung na là người tu các pháp lành không làm ác ư? Nếu là bc tinh tu phm hnh, sc thin đnh sâu thì phm sen càng cao, thy Pht nghe pháp mau l, đến như người đi trit đi ng, dt hoc chng chơn cũng nên hi hướng vãng sanh, đ cu tròn chng pháp thân, mau thành qu Pht. Các pháp môn khác, nếu nh thì hng đi căn không cn tu, ln thì hng tiu căn không th tu; ch có môn Tnh đ này trùm khp ba căn, gm thâu li đn, cao siêu như đc Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Ph Hin, không th vượt ra ngoài, thp kém như k Ngũ nghch, Thp ác chng tánh A tỳ cũng được d vào trong. Gi s đc Như Lai không m môn này, thì chúng sanh đi Mt pháp chng còn hy vng thoát đường sanh t. Nhưng pháp môn Tnh đ tuy rng ln như thế, mà cách tu li rt d dàng. Vì c y, chng nhng phàm phu khó tin mà hàng Nh tha cũng đa nghi, cho đến bc quyn v B tát hoc còn lòng ng, tr nhng người kiếp trước có gieo căn lành Tnh đ và bc Đi tha B tát qu v đã cao mi sanh được lòng tin sâu chc. Như Thái t khi va sanh ra, tuy tài đc chưa lp, song nh thế lc ca vua cha, nên sang trng hơn qun thn, người đ tín nguyn nim Pht dù là phàm phu song chng tánh đã hơn Nh tha, vì biết đem tâm phàm gieo vào bin giác, thm hip vi đo mu, nh sc Pht mau lên bc Bt thi.

Mun nói môn Tnh đ, nếu không so sánh lược qua s khó d v t lc ca các môn khác cùng tha lc ca pháp này, thì dù không nghi pháp cũng sanh ra nghi ng chính mình. Và nếu lòng nghi còn mt my tơ, tt s nhân nghi thành chướng, đng nói không tu, có tu cũng chng được hoàn toàn tht ích. Vì thế tin là điu nên tìm cu trước nht. Phi tin nhn chc cõi Ta bà tht là kh, cõi Cc lc tht vui. S kh  Ta bà không lường, không ngn, ước li có tám điu: sanh, già, bnh, chết, thương xa lìa, oán gp g, cu không toi ý, năm m ly lng. Tám món này, dù sang như vua chúa, hèn như k ăn xin cũng không tránh khi. By th trước là qu cm ca đi quá kh, mt món sau là nhân kh ca đi v lai, nhân qu dây dưa ni nhau không dt, hết kiếp này đến kiếp khác chng được thoát ly. Ngũ m là năm món che, vì sc, th, tưởng, hành, thc che lp chơn tánh như mây đen án mt tri không cho ánh sáng hin l, và đi vi sáu trn khi hoc gây nghip như ngn la bc cháy nên gi là ly lng. Món th tám này là ci gc ca tt c s kh. Người tu hành khi sc thin đnh đã sâu, không chp sáu trn, không khi lòng ưa ghét, t nơi điy gia công thì hoc nghip s ln tr sch, dt hn ngun sanh t. Nhưng công phu y rt không d, trong đi Mt pháp tht khó có người làm được, nên cn phi chuyên tu Tnh nghip cu sanh Cc lc, nh sc t ca Pht tiếp dn v Tây phương. Đã đến cõi y, hóa sanh nơi hoa sen, thì không còn s kh v sanh; thun tướng đng nam, sng lâu như hư không, thân không suy biến, thì già, bnh, chết chng còn nghe tên hung là có tht? T đó bn cùng Thánh chúng, gn vi Di Đà, chim nước rng cây din nói pháp mu, tùy nơi căn tánh nghe ri tu chng, chng y người thân còn không có, la là oan gia?  cõi Cc lc, tưởng ăn được ăn, tưởng mc được mc, cung đin lâu đài đu là châu báu t nhiên hóa hin, by điu kh  cõi trược đã đi thành by điu vui, đến như thân thì có thn thông oai lc ln, không ri ch , trong mt nim có th đến khp mười phương thế gii làm nhng vic cu Pht đ sanh; tâm thì có trí hu bin tài cao, nơi mt pháp biết hết tht tướng các pháp, tuy nói vic thế gian đu hp vi lý mu. Thế là ni kh năm m cũng không còn, ch hưởng s yên vui tch tnh. Cho nên trong kinh nói: “Thế giy tên là Cc lc, vì chúng sanh  cõi đó không có các s kh, ch hưởng nhng điu vui”. Tóm li, ni kh  Ta bà t chng xiết, s vui  Cc lc nói không cùng, nếu cư sĩ dt hn mi nghi ng, tin chc li ca Pht, mi gi là tin sâu. Nên đ ý: đng đem trí hiu biết ca phàm phu suy đ, nhn lm rng: “Bao nhiêu s mu l không th nghĩ bàn  Tây phương đu thuc v ng ngôn đ thí d cho tâm pháp, ch không phi cnh tht”. Nếu có s hiu biết lm ly, tt s mt điu li ích vãng sanh Tnh đ, mi hi này rt ln, phi nên cn thn.

Đã biết Ta bà là kh, Cc lc là vui, nên phát lòng th nguyn thiết tht, nguyn lìa Ta bà v Cc lc. Lòng nguyy ví như người b sa xung hm nhơ cu mau ra khi, li như k  lao ngc mong nh c hương. S mong cu cn phi khn thiết, vì sc mình không th t thoát khi, phi nh bc có thế lc ln dìu dt. Chúng sanh  cõi Ta bà, đi vi cnh thun nghch khi lòng tham, gin, mê, gây nghip giết, trm, dâm, làm ô uế bn tâm trong sch, y là hm nhơ sâu thm. Đã gây nghip ác, tt chu qu kh, tri nhiu kiếp luân hi trong sáu no đó là lao ngc lâu dài. V kiếp trước, đc A Di Đà phát bn mươi tám li nguyn đ sanh, trong y có mt nguyn: “Nếu chúng sanh nào nghe danh hiu Ta, chí tâm xưng nim cho đến mười ln, cu sanh v Cc lc, như không được vãng sanh, Ta th không thành Pht”. Đc T ph tuy th nguyn đ sanh như thế, nhưng nếu chúng sanh không cn tiếp dn, Pht cũng chng biết làm sao? Như có người hết lòng xưng danh, cu lìa cõi Ta bà, đu được Pht xót thương tiếp dn. Đc A Di Đà oai lc rt ln, có th cu vt loài hu tình ra khi hm nhơ lao ng cõi trược, đem v Cc lc, khiến cho vào cnh gii Pht, đng s th dng ca Như Lai. Mun sanh Tây phương, trước phi tin sâu nguyn thiết. Thiếu hai điu này, dù có tu, cũng không th cng vi Pht, ch được phước báo cõi Tri, Người và gieo nhân gii thoát v sau mà thôi. Nếu tín nguyn đy đ thì muôn người vãng sanh không sót mt. Ngài Vĩnh Minh đã bo: “Muôn tu, muôn người v là ch cho người có tín nguyn đy đ vy. Đã tin sâu, nguyn thiết li phi tu hnh nim Pht, dùng tín nguyn làm tiên đo, nim Pht làm chánh hnh. Ba món này chính là tông yếu ca pháp môn Nim Pht, nếu thiếu mt, quyết không th vãng sanh.

V hnh nim Pht, đu tùy theo hoàn cnh ca mi người mà lp, không th chp đnh mt l li. Như thân được nhàn nhã, nên t mai đến chiu, chiu li mai, đi, đng, nm, ngi, nói, nín, đng, tnh, mc áo, dùng cơm, cho đến lúc đi tiu tin, tt c thi, tt c ch, làm sao cho câu nim Pht chng ri lòng. Như khi tm gi sch s, y phc chnh t và ch nơi thanh khiết thì nim thm hay ra tiếng đu được. Nếu lúc ng ngh, mình trn, đi đi tiu tin, và ch nơi không sch, ch nên nim thm; ch nói là nhng khi không nghiêm sch như thế chng nên nim, ch e lúc y nim không được đó thôi! Tuy rng nim Pht là công vic sut đi đng cho xen h, nhưng mi bui sm mai phi l Pht, trước tng Kinh A Di Đà qua mt ln, chú vãng sanh ba ln, ri đc bài k “A Di Đà Pht thân sc vàng...” Đc k xong, nim“Nam Mô Tây phương Cc Lc Thế Gii, Đi T Đi Bi, A Di Đà Pht.” Kế tiếp nim “Nam Mô A Di Đà Pht” hoc năm trăm câu, mt ngàn câu, càng nhiu càng tt. Khi nim nên đi nhiu quanh bàn Pht, nếu ch đi nhiu không tin, thì quì, hoc ngi, hoc đng nim đu được. Nim sp xong li quì trước bàn Pht nim Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tnh Hi Chúng, mi Thánh hiu 3 ln, ri đc bài văn Tnh đ, phát nguyn hi hướng vãng sanh. Đc văn Tnh đ là y theo nghĩa trong văn mà phát tâm, nếu chng thế thì thành đc suông, không được tht ích. Sau bài phát nguyn, nim Tam Quy Y, l Pht lui ra. Đây là thi khóa bui mai, chiu cũng như thế. Nếu mun ly Pht nhiu, hoc sau khi nim Pht, tùy ý đnh l, kế tiếp chín ln xưng danh B tát, l chín ly ri phát nguyn hi hướng; hoc lúc công khóa xong, mun ly bao nhiêu cũng được. L Pht phi chí thành khn thiết, chng nên lếu láo thô sơ; b đoàn không được quá cao, cao thì mt s cung kính.

Như công vic đa đoan không ri rnh, nên đnh vào bui sáng sm sau khi súc ming ra mt, có bàn Pht thì đến trước l ba ly, ri đng thng chp tay nim “Nam Mô A Di Đà Pht” hết mt hơi là mt nim. Nim đ mười hơi, tiếp đc bài k “Nguyn cùng người nim Pht. Đu sanh v Cc lc. Thy Pht thoát sanh t. Như Pht đ tt c.” Đc k xong, l Pht ba ly lui ra. Nếu không bàn Pht thì chp tay hướng v phương Tây cũng như cách thc trên mà nim. Đây là phép Thp Nim ca Ngài T Vân Sám Ch lp ra cho hàng vua quan, vic chánh ri nhiu không đ thi gi tu tp. Ti sao phi nim luôn hết mt hơi? Vì tâm chúng sanh tán lon li không rnh đ chuyên nim, nim như thế là mượn hơi nhiếp tâm khiến cho quy nht. Nhưng phi tùy hơi dài ngn không nên ép, ép thì hao hơi; li ch gi đ mười nim không nên hai hoc ba mươi, nhiu cũng lao hơi. Bi vì tán tâm nim Pht khó được vãng sanh, phép này làm cho tâm chuyên nht, tuy s nim có ít nhưng công đc rt sâu, quyết đnh s sanh v Cc lc. Lúc rnh và gp đã có cách thc, thì khi bình thường không rnh gp, nên châm chước mà lp phép tc tu trì.

Li người nim Pht, mi vic phi gìn lòng trung th, mi nim đ phòng s li lm, biết li mau ci, thy vic nghĩa vui làm, mi hp vi Pht. Nếu chng thế, tt nơi lòng còn có s chướng ngi, không hp vi tâm Pht, quyết khó cm thông. Và, khi l bái, tng Kinh Đi tha cùng làm tt c vic hu ích trong đi, đu phi hi hướng v Tây phương, không nên ch đem hnh nim Pht hi hướng vãng sanh, còn bao nhiêu công đc kia đ hi hướng v phước báo thế gian. Nếu như thế là tâm không quy nht rt khó vãng sanh. Phi biết người chân tht nim Pht, tuy không cu phước báo thế gian, song cũng được sng lâu, mnh khe, ca nhà yên vui, con cháu phát đt, tóm li bao nhiêu phước báo  đi đu được đy đ. Nếu riêng cu phước không chu hi hướng vãng sanh, thì trái li phước báo rt kém ít, có hi đến s vãng sanh. Pháp môn Nim Pht các Kinh Đi tha đu khen ngi, Kinh Tiu tha tuyt không nói đến, người chưa thông giáo lý bác nim Pht là Tiu tha, y là nói càn, ch nên nghe theo. Đến như s cu cơ mà cư sĩ nói, phn nhiu thuc v loài linh qu da theo trí thc ca người cm cơ đ viết ra. Trong y nếu bàn v vic thế gian thì có phn đúng, còn v Pht pháp, vì không phi ch h hiu biết, nên lm đt ra diu ngôn như sau quyn Kim Cang Trc Gii có ph thêm nhng hiu Tiên Thiên, C Pht v.v... y là li ma rt ác, làm mt trí hu, hi chánh kiến ca người, nếu đem ra truyn bá, đã không phước còn mang ti ln na.


5/ Thơ đáp Cư Sĩ Lâm Gii Sanh

 

 

Đã my năm không gp nhau, tc lòng hng tưởng nh đến cư sĩ. Mùa thu ri, nhân lnh huynh Lâm Chi Phân đi d kỳ hương thí, có đem thơ đến Ph Đà, tôi mi được biết s tu trì ca cư sĩ trong thi gian gn đây. Nghe nói trong nhà bt hnh, mt đa con yêu, nên cư sĩ hôm sm thương bun không an, tôi mun nói rõ s lý nhân qu, nhưng vì công vic biên son quá gp, nên ch viết thơ k sơ lược qua. Ngày rm hôm nay, Thy Trit Quyn lên núi thăm, trong câu chuyn li nói đến tình trng oán trách ca cư sĩ, và nhng tà thuyết ca mt vài người tc da vào đó bo: làm lành mang ha, tu hành không li ích chi... Tôi nghe xong bt giác ngm ngùi, e rng bc thượng trí nhân vic này tr ni s tu, k h ngu li dám làm ác, nên không ni quê hèn, xin đem li ngay đ cùng nhau bày t.

Trong Kinh Pht thường nói: “Qu báo thông ba đi và người sanh con cái lược có bn nhân.”

Qu báo thông ba đi gm có: hin báo, sanh báo và hu báo. Hin báo là đi nay làm d, lành, đi nay được ha phước; như sĩ t cn hc tp, hin thân được công danh. Vic này mt phàm đu có th thy. Sanh báo là đi nay làm d lành, đi sau được ha phước; như ông cha trng văn cht, con cháu mi phát đt, hin vinh (sanh báo ước nơi bn nhơn và vic cách đi khó ch rõ, là tm mượn thí d đ cho d hiu, xin đng nhân li mà hi ý). Vic này mt phàm không thy, thiên nhãn còn có th thy được. Hu báo là đi nay làm d, lành, đến đi th ba, th tư, hoc ngàn muôn đi, cho đến vô lượng vô biên hng hà sa kiếp v sau mi được ha phước; như vương nghip ca đi Thương, Châu, tht ra m đu t ông Tc, ông Khiết. Vic ba, bn đi thiên nhãn còn thy được, nếu vic trăm ngàn kiếp thiên nhãn không th thy, nhưng đo nhãn ca hàng Thanh văn thy biết rõ ràng. Đến như vic vô lượng vô biên hng hà sa kiếp, ch có đng Như Lai ngũ nhãn tròn sáng mi nhìn sáng sut trước sau. Cnh y còn không phi là nhãn gii ca Thanh văn, hung chi là thiên nhãn, nhc nhãn? Biết được qu báo ba đi, thì s làm lành được phước, d mang ha, li Thánh vn không sai, và giàu nghèo, sang, hèn, th, yu, cùng, thông đu có s phn, đâu tng thiên lch? Như hình đp xu thế nào, bóng hin trong gương cũng như thế y, người trí biết sa đi hình, k ngu lung ghét hn vi bóng! Cnh nghch vn thun chu, là biết vui s phn; không oán tri trách người, mi có th lp mng.

Con cái có bn nhân: báo ân, báo oán, tr n, đòi n. Báo ân là con đi vi cha m đi trước có mang ân, vì báo ân nên đến làm con, trn đi phc dch nhc nhn, khiến cho song thân khi sng còn được phng dưỡng an vui, lúc qua đi được chôn ct, cúng tế. Cho đến hoc con làm nhng vic giúp nước an dân, danh nêu thanh s, đ cho thiên h đi sau nhân kính người mà mến trng c cha m như các ông: Tăng L Công, Trn Trung Túc, Vương Quy Linh, S Đi Thành... Đi nay nhng con tho cháu hin đu thuc v hng y.

Báo oán là cha m đi vi con đi trước có điu ph nghĩa, nó mi đến làm con đ báo oán. Khi còn nh con đã sanh lòng ng nghch, ln lên li gây ha làm ly cho cha m; khi song thân còn sng, không cung phng, lúc chết, đ nhc lây đến k cu tuyn. Thm chí có khi, con nm quyn chc trng yếu ri làm điu trái phép, khiến cho nhà ca nát tan, dòng h dit tuyt, m m b đào xing, đ thiên h đi sau nhân thóa m người mà ghét luôn c cha m, như bn Vương Mãng, Tào Tháo, Đng Trác, Tn Ci...

Tr n là đi trước con có thiếu tin ca nơi cha m, vì tr n nên đến làm con, nếu s thiếu nhiu thì tr đến mãn đi song thân, thiếu ít hoc đến na chng ri đi. Như con hc va thành danh thot chết mt, buôn bán mi va được li bng lìa trn.

Đòi n là đi trước cha m có thiếu tin nơi con, nay nó đến làm con đ đòi li. Như s n nh thì cha m ch tn tin cho con ăn mc, thuc men, hc hành, cưới g, và dy bo đ điu mun cho mai sau thành lp, nhưng vì kỳ hn đã mãn, nó lin qua đi. Nếu s n ln, có khi đa con xài phá tiêu tan hết s sn ca cha m mi thôi.

Nay tôi xem lnh t dường như đòi n mà đến, may vì s n có ít, nên va ln khôn đã vi t trn. Vy cư sĩ nên sám hi nghip đi trước, gng sc tu hành. Do s bi phướy, chc có l ri đây cư sĩ s sanh được đa con quí làm rc r tông môn ch chng không! Xem như đc Khng T là Thánh nhơn mà người con mt mt thu trung niên, Thy Nhan Uyên là bc đi hin, song li tui xuân ngn ngi, ông Nguyên Hiến nghèo xơ xác, Thy T L b tun nn. Bá Di, Thúc T chết đói nơi núi Thú Dương, còn Ngài C Bá Ngc cùng kh nước V. Cư sĩ cho rng Thánh hin do tu đc mà b tri phư? Hay là sng chết, giàu sang đu có s mng? Vy cư sĩ ch nên trách đc mình chưa đ, ch hi điu ha phước làm chi. Được như thế kiết thn s đến, tai tinh t nhiên lánh xa.

Trong đi sng, con người có đ tám s kh, dù sanh lên cõi tri cũng khó khi năm tướng suy, ch thế gii Cc l phương Tây là thun vui không kh. Biết đâu do cư sĩ có công hong dương pháp môn Tnh đ nên Thánh thn đem đa con không phước th y, làm mt mũi kim thng tnh đâm trên đnh đu, đ cư sĩ thy rõ ba cõi như nhà la không an, các s kh dy đy rt đáng s, kiếp người vô thường mau như chp, khi đi hn đã đến không ai cm gi được ai. Tt c pháp hu vi như mng huyn, bóng bt, bây gi chưa tnh ng cn tu Tnh nghip thì có khác nào g đá vô tình? Người có ý chí đâu chu làm khi tht biết đi, biết chy, đ ngày kia đng chết mc vi c cây? Đâu n t cam  cnh phàm ngu, c mãi nâng cao cnh Thánh? Gp duyên nhc nh khn yếu như thế mà không phn phát, nghe được chánh pháp mà không chu làm theo, y là Pht ph chúng sanh hay là chúng sanh ph Pht?

Là người trí hu, mong cư sĩ xét nghĩ...

 

6/ Thơ đáp anh em mt v Cư Sĩ  Vĩnh Gia

 

 

T đ trng xuân bit nhau, không my chc đã sang tiết h, bóng thiu quang mau l, rt d kinh người! Mi khi nghĩ đến nh v lòng tin tuy chơn thiết, nhưng l đo chưa rõ thông, đến ni b ch cao minh theo nơi thp ti, không nhng mình mt chánh kiến, đ cười cho bc đi gia, mà chính như n Quang này đã mang tiếng là k quen biết vi nhau, cũng t thy sanh lòng h thn! Trong bc thơ gi đến, cư sĩ nói: “V sau có viết được quyn chi s tùy thi xin ph chánh.” Nhưng tôi mt yếu th suy, nếu vô s tt không gn gũi nghiên bút, dù có vic phi cn đến, xét li cũng như nhóm mt đng ch, có ch nào đáng xem? Tuy nhiên, e rng lung ph lòng nh v hng mong tưởng, tôi xin đem chút canh tha cơm hm sơ lược sp bày, như không him vì nng mùi, thì cũng có th tm đ lòng, đ ln lượt nếm đến món cao lương t tánh.

V bài T Liu Gin, nghĩa lý rt sâu xa thiết đáng, nên tìm xét k, muôn ln xin ch ly s gii thích cn ct ca mt vài người mà khinh thường. Nếu như thế, rt ung ph tm lòng đi t bi ca Ngài Vĩnh Minh, mt phen cn li, khuyên bo. Quyn Trì Kinh Li Ích Tùy Tâm Lun s dĩ có, là vì người đi nay khi th trì kinh đin, phn nhiu không my may kính s. Mun được s tht ích trong Pht pháp phi tìm nơi lòng kính s; nếu chí thành cung kính, còn có th mau chng qu Pht, hung na là đa v thư? Thin Đo Hòa thượng vn là hóa thân ca đc A Di Đà, có thn thông trí hu ln, nhưng li giáo hóa v tông Tnh đ, Ngài không chung nơi huyn diu, ch trng s thiết tht bình thường. V đim chuyên và tp tu ca Ngài ch dy, rt có li ích vô cùng! Chuyên tu là thân nghip chuyên l, khu nghip chuyên xưng (khi tng kinh chú, nếu chí tâm hi hướng vãng sanh cũng có th gi là chuyên xưng) ý nghip chuyên nh. Được như thế, thì muôn người tu đu vãng sanh không sót mt. Tp tu là gm tu nhiu pháp môn khác hi hướng Tây phương, vì tâm không thun nht nên khó được li ích, trong trăm ngàn người ch hy vng được ba bn người vãng sanh mà thôi. Đây là li vàng chc tht, ngàn đi không thay đi. Nh v nên y theo nhng li này đ t li, và đem khuyên tt c mi người. Đến như phép trì chú ch được dùng làm tr hnh, không nên làm chánh hnh kiêm vi nim Pht. Phép trì chú tuy không th nghĩ bàn, nhưng phàm phu vãng sanh toàn nh nơi tín nguyn chơn thiết hp vi sc hong th ca đc A Di Đà, đo cng thông nhau mà được tiếp dn. Nếu chng rõ ý này cho rng các pháp không th nghĩ bàn, tu môn nào cũng được, tt s thành ra không thin, không tnh, muôn đi chìm đm, chng y biết nương ta cùng ai? Như xét nghĩ mình là phàm phu dy đy nghip chướng, nếu không nh sc hong th ca Pht, trong đi này quyết khó thoát khi luân hi, mi thy Pháp môn Tnh đ lc dng hơn tt c các giáo pháp khác.

Trì chú, tng kinh dùng đ trng phước hu, tiêu ti nghip thì được, nếu vng ý mun cu thn thông, đó là b gc theo ngn, không khéo dng tâm. Thng như tâm y c kiết, li thêm đo lý không minh, gii lc không chc, nim B đ không sanh, lòng hơn thua lng ly, e có ngày b ma da phát cung! Mun được thn thông trước phi đc đo; đc đo thì thn thông t đ, như không gng sc nơi đo, ch cu thn thông, đng nói là không được chi, dù có được cũng tr thành chướng đo. Vì thế, chư Pht, T đu nghiêm cm không cho tu hc theo đường ly. Bi người đi thường có nhng tâm nim như vy, nên tin đây tôi cũng nói qua. Nh v trên nhà hãy còn lnh thân, nên thường đem pháp môn Tnh đ và nhng s tích cng ging gii, khiến cho người sanh lòng vui đp tin làm theo. Nếu không ly điu này báo hiếu, dù có th làm đo hiếu ca đi, kết cuc có ích li gì cho song thân đâu? Vua Võ vn bc Thánh nhân, còn không th cu cha là ông Cn hóa làm con rùa ba chân đa vào súc loi. Xem vic này há không tnh ng, gp cu dn thn thc song thân d hi Liên Trì, hu gn đc Pht đ người chng được bn tánh Vô Lượng Quang Th ư?

S kh hnh ca cư sĩ Chí Liên tuy cũng tt, nhưng e cô chưa hiu tông ch Tnh đ, hoc không th buông b hết nhng tâm nim chuyn n thành nam và mong hưởng phước báo  cõi Tri, Người, thì s li ích vô biên vì cái vui nh thế gian mà thành ra ung mt! Nên đem điu này ging rõ đ chí hướng cô được thêm quyết đnh. V li, khuyên mt người sanh Tnh đ, chính là thành tu mt chúng sanh làm Pht, và đã thành Pht tt đ vô lượng chúng sanh, công đc không ngy s v phn mình. Li na, người tu Tnh đ đã đem pháp môn này khuyên bo mi người, đi vi v con đâu n không dìu dt đ cho k trong nhà mt phn li ích ln hay sao? Như người trong thân quyến sn có căn lành thì còn gì hay hơn; bng không được thế, cũng phi ln lượt un đúc khiến cho mi ngày càng gn vi l đo. Đây mi gi là lòng t ái sâu rng, nếu b điu này mà gi là t ái thì cũng ch có danh không tht mà thôi. Li tôi nói chng qua sơ lược mt đôi điu đ nêu ra phn đi khái, không đ ly làm khinh trng, xin xem rõ các b Tnh Đ Thp Yếu, Tnh Đ Thánh Hin Lc; Lc Bang Văn Loi... t có ch nương theo, chng còn nghi ng gì na.

Ni kh  Ta bà nói không cùng, dù cho gp thu thanh bình, chúng sanh cũng vn chen chúc trong bu nhit não, nhưng vì nhn chu lâu ngày thành quen, nên không t biết đó thôi. Gn đây,  Trung Hoa thường b nn binh la, s kh không th t xiết! Nhìn ra các nước ngoài, cuc đi chiến đã ba năm, s người chết quá nhiu mà thế chiến tranh vn còn thnh, chưa biết ngày nào mi thôi. Thm cnh y do nghip ác ca chúng sanh gây nên, cũng chính là trng thái ca kiếp đao binh m đu; ni kh v sau, nếu nghĩ đến tht đáng kinh s! Mong nh v phát đi tâm mau cu vãng sanh đ sm chng đo qu, ri tr li hóa đ chúng sanh nơi cõi Ta bà này. Kinh nói: “B tát s nhân, chúng sanh s qu.” B tát e mang ác qu nên dt ác nhân, chúng sanh tranh to ác nhân, đ ri chu ác qu. Trong khi chu qu kh li không biết sám hi còn gây thêm điu d đ đi tr, thế nên oan oan tương báo ni mãi khôn cùng, nghĩ đáng thương mà cũng đáng s!

Biết được l này, không cu sanh Tây phương chưa phi là trượng phu!

 

7/ Thơ đáp Cư Sĩ Bc Đi Phàm

 

 

T xa đón bc văn chương, riêng lòng không khi h thn! n Quang t nh thiếu hc, nên kiến thc mù m, by lâu ni trôi đt khách, ch ăn g Ph Đà. Hôm nay không ng được các h, mt bc hiu sâu tâm tông Nho, Pht, tng tham vn các phương tri thc, hc hnh siêu qun chng xem là quê mùa đ li hi đến, li quá vì khen ngi, khiến cho người bi ri không an. Thm nghĩ các h hc vn rng rãi, thy hiu cao xa, đâu có l còn hoài nghi vi my điu tm thường như thế, chc là không ngoài bn ý mun làm gương mu đ dn phát cho k đng tu đó thôi. Tuy nhiên các h đã ly biết làm không biết, tôi cũng chng ngi gì ly không biết làm biết, xin tùy li gii đáp, đâu dám bt chước ông quan già phê án, mà chính là hc trò dâng np v thi. Vy nhng li bày t sau đây, nếu có sai lm, xin nh ph chính.

1. Nim Pht tuy quí tâm nim, nhưng cũng không nên b s đc tng ra tiếng, vì thân, ming, ý giúp đ ln nhau. Dù rng tâm có th nh nghĩ, song nếu thân không l kính, ming chng trì tng, thì cũng khó được li ích. Như người đi khi khiêng đ vt nng còn phi dùng tiếng giúp sc, hung là vic mun nhiếp tâm đ chng Tam mui hay sao? Cho nên Kinh Đi Tp nói: “Nim ln thy Pht ln, nim nh thy Pht nh.” C đc cũng bo: “Nim ln tiếng thì thy thân Pht cao ln, nim nh tiếng thì thy thân Pht bé nh.” Vi hng phàm phu, tâm thường hôn trm, tán lon, nếu không nh sc thân l ming tng, tt khó được nht tâm.

2. Ch chân lý thc tế mi không còn sanh dit, ngoài ra, trong Pht s có pháp nào chng phi là sanh dit? Bc Đng giác B tát phá bn mươi mt phm vô minh, chng bn mươi mt phn bí tng cũng không ngoài s ly, b, sanh, dit, hung na là vic nim Pht đi vi phàm phu ư? Nhưng sanh dit tuy là ci sanh t, mà cũng là gc B đ, có sanh dit hay không, ch do nơi người mà thôi. Nhiếp c sáu căn, ni lin tnh nim, chính là đem s sanh dit b giác hip trn, đi thành s sanh dit b trn hip giác, đ kỳ chng được Pht tánh chơn như không sanh dit vy.

3. “Nim ni Tnh đ mi được vãng sanh” là thuc v thân phn ca bc vãng sanh Thượng phm. Nếu chp đnh nghĩa này t cu Thượng phm thì còn chi hay hơn, bng chp đnh đ dy hng căn cơ trung, h, tt c s làm tr ngi s thăng tn ca người chng ít. Ti sao thế? Vì l h cho pháp này quá cao, ri cam phn thp kém, không chu tu trì. Li, phép nim Pht tuy thuc ý thc, nhưng cũng đ c các thc, trong kinh văn há chng nói: “Nhiếp c sáu căn” đó ư? Sáu căn đã nhiếp thì sáu thc đ làm gì? Tc như chuyn câu nim Pht vào hàm tàng thc cũng không ngoài công dng ca sáu thc.

4. Đon lun vn v mc “Nim Pht tương tc, dao chém chng đt” vn không còn ng; nhưng vì các h chưa phân bit gii hn ca Thin tông, Tnh đ, và t lc, tha lc, nên thành mt khi hoài nghi. Pháp môn Nim Pht là nương nh sc Pht ra ba cõi, sanh v Tnh đ, nay đã chng phát nguyn tt cũng không có lòng tin. Nếu không tín nguyn, ch nim danh hiu Pht, vn thuc v t lc, và bi thiếu tín nguyn nên không th thông cm vi sc hong th ca đc A Di Đà. Thng như tr được phin não kiến, tư, còn có th vãng sanh, nếu chưa tr, hoc tr chưa hết, thì gc nghip vn còn và phi b luân hi. V điu này ông Ngũ T Gii, Tho Đường Thanh là nhng bng chng xác tht. Phi biết, nếu b tín nguyn mà nim Pht, thì có khác nào s tham cu ca nhà tu thin. Và nếu được vãng sanh, chng hóa ra nhân qu không phù hp hay sao? Ngài Ngu Ích bo: “Được sanh cùng chăng, toàn do nơi lòng tín nguyn có, không; phm v cao thp, đu bi công trì danh sâu, cn” là mt lun án chc chn không thay đi. Trong Kinh A Di Đà, câu: “Mt lòng không lon” là nương theo đon công đc y, chánh,  văn trước khuyên sanh lòng tin, và ni theo đon: “Nếu có chúng sanh nào nghe kinh này, phi nên phát nguyn cu sanh v nước kia” chính là bo phi phát nguyn. Hơn na, v đim tín nguyn, trong my đon văn sau cũng lp li nhiu ln. Các h ct đt my đon văn y, ch nhìn vào câu “mt lòng không lon” xem s nht tâm có tín nguyn cùng không tín nguyn đng như nhau, nên mi thc mc v ch:“Nim Pht đến trình đ dao chém chng đt tc là thun nht ri, ti sao li không được vãng sanh?”

5. Ngoài câu nim Pht, nếu có nim khác tc là xen tp. Nhng niy rt nhiu khó k hết được, ch nêu phn chánh như: nim cu đi trit, đi ng, nim mong được đi tng trì, v.v... ch không phi ch cho s phát nguyn là xen tp. Nên biết pháp môn Tnh đ ly Tín Nguyn, Hnh làm tông ch. Hnh như c xe, Nguyn như người phu xe, Tín như k dn đường, đ c ba mi thành tu s tn thú ca xe. Vì thế người tu Tnh đ hôm sm phi phát nguyn. Li ch nên chp nê rng nhng lúc không nim Pht, hoc khi phát nguyn là ct đt, xen tp, tnh nim không thành. Th hi: tâm niy có tng tri qua nhng cnh thy, nghe, mc áo, ăn cơm, cùng các s c đng khác hay không? Nếu có, vi my điu này đã không thy ct đt, xen tp, sao li cho nhng vic kia là tp lon? Cho nên, dù nim Pht đến cnh cnh gii “mt nim muôn năm” cũng không ngi gì ti s khi cư hng ngày. Bng tuyt nhiên không c, hoc ra ch có pháp thân B tát mi đm đương ni. Nhưng các bc Đi sĩ tuy  yên mt ch mà hin vô s thân trong cõi vi trn, làm vô lượng Pht s, nếu qu có xen h tp lon, thì chc không biết là bao nhiêu? chư Pht, B tát có th đng thi khp đến mười phương, song đây ch là mt vic, tht ra tâm ta vn đ các lý, ng muôn s, không phi như thế mà thôi đâu!

6. Ước theo nghi thc xưa nay, s phát nguyn thường  vào khong sm mai và ti. Nhưng cũng có người khi nim Pht xong thi nào, lin hi hướng phát nguyn ngay lúc y. Các h đã hiu sâu tánh, tướng mà còn cho rng: “nim Pht và nim cu sanh không th đi đôi”, thì dường như đi vi viên lý s vô ngi, chưa được tin chc. Li bo: “Nếu có th đi đôi tt tâm nim s chia làm hai: mt na v Pht, na v nguyn, thế thì mt ngườưng thành hai v Pht.” Xin hi, cơn bình thường, có lúc nào các h đương lúc mt thy sc mà tai vn nghe tiếng cho đến ý vn suy nghĩ hay không? Nếu qu có thế, ti sao riêng vi vic này các h hãy còn ng? Vy nên biết, tâm nim công dng không lường; tám thc há chng phi là th dng ca mt tâm ư? Kia đã không thành tám v Pht, ti sao đây li thành hai v Pht?

7. Bình sanh tuyt không tín nguyn, khi lâm chung khó được nh sc Pht. Đã nói: “Lúc nghip lành d đng thi đu hin”, thì chng nhng câu nim Pht không hin không được vãng sanh, dù có hin cũng không được vãng sanh. Ti sao thế? Vì không phát nguyn vãng sanh, vì không cu Pht tiếp dn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Gi s nghip ác có hình tướng, mười phương hư không chng th dung cha.” C đc bo: “Tâm nghip rt nhiu, ngã v mi nng như người mc n, ch mnh kéo đi.” Nay nghip lành d đu hin, bi không tín nguyn, tt phi b nghip lc lôi cun mt s ch trương. Thế thì biết, nương cy sc mình, dù hoc nghip còn mt my tơ cũng không thoát khi sanh t, la là nhiư? Nim Pht đến nht tâm mà không tín nguyn, trong vô s người, hoc may có được mt vài k vãng sanh. Rt không nên đem điy giáo hóa làm mt căn lành Tnh đ ca tt c chúng sanh đi sau. Vì nếu ch nương t lc nim cho đến nghip dt tình không, chng Vô sanh nhn thì khp thế gian khó được mt đôi người. Thng như ai ny đu y theo thuyết này mà tu trì, không chú trng đến tín nguyn, tt vô lượng chúng sanh s ni chìm trong bin kh, bt no thoát ly, y cũng vì mt li nói gây nên tn hi. Mà người ch trương thuyết trên kia li còn nghênh ngang t đc cho rng li mình rt cao; đâu biết đó là cung ngôn làm dt mt hu mng Pht, khiến chúng sanh lm lc nghi ng! Thương thay!

Pháp môn Tnh đ phi xem là đc bit, không nên đem sánh vi giáo nghĩa thông thường. Ví như đc Pht chng m môn này, chc trong đi Mt pháp không có ai thoát khi đường sanh t! B Di Đà Yếu Gii ca Ngài Ngu Ích, lý s đu đến ch cc đim, nếu các h y theo đó hành trì, thì ngày kia trên phm v vãng sanh không ai sánh kp. Người xưa tu hành đu có th chng đo, trái li người đi nay ít k minh tâm. y bi căn cơ có thp kém ư? Hay là do lòng cung kính, khinh mn khiến nên như thế? Tôi xem nhiu truyn ký, thy nhng bc cao nhân đu trng kinh tượng như Pht sng, s kính s ca các Ngài dù cho tôi trung, con tho, cũng không th phưởng pht được mt đôi phn. Vì lòng thành kính cùng cc, nên các v y có th dt hoc chng chơn, vượt thng lên cõi Thánh. Th xem mt vic Nh T Thn Quang đng hu dưới tuyết, cht cánh tay cu pháp  Thiếu Lâm, cũng đ thy lòng thành kính ca Ngài dường nào! Người đi nay xem tượng Pht như g đt, kinh Pht như giy cũ, dù có lòng tin th trì, chng qua là đc tng làu thông nơi đu mm mà thôi, có điu tht ích gì đáng bàn lun đâu! Tuy rng như thế cũng gieo được vin nhân, nhưng ti khinh ln tht không th tưởng nghĩ! Các h là bc lun gii hc nhiu, khi đ xướng Pht pháp, xin nhc nh điu này, đ mi người cùng được li ích. Như thế, pháp môn và chúng sanh s hân hnh biết bao!


8/ Thơ gi Cư Sĩ V Cm Châu

 

 

(Cư sĩ nhân gp ha tai, nhà ca vt dng b cháy sch, v kinh hãi đau nng, nên tâm thn mê mui như điên cung, n Quang Pháp sư gi bc thơ này khuyên dy...)

 

Kinh Pháp Hoa nói: “Ba cõi không an, dường như nhà la, s kh dy đy, rt đáng s hãi.” Tuy nhiên, nhiu khi cnh ng cũng làm nên cho người bng nhng giai đon: ha, phước, nghch, thun, kh, vui... không nht đnh. Vi bc có trí, biết quyn biến, khéo an theo s phn, thì cnh ha, nghch, kh nào không hóa thành phước, thun, vui?

Cho nên người quân t thường vui theo phn, biết s mng, không oán tri trách người, dù gp cnh ng nào cũng vn an nhàn, bình thn! Người xưa có câu: “Cnh giàu sang an theo giàu sang, cnh nghèo hèn an theo nghèo hèn, cnh man r an theo man r, cnh hon nn an theo hon nn...” Cư sĩ tuy có lòng ưa thích điu lành, nhưng chưa rõ ch chí lý ca đo Nho và Pht, nên mi mt phen gp cnh nghch đã bi ri kinh cung. Tôi xin đưa nhng điu sau đây đ cư sĩ nhn rõ:

Trong đi, rt rng dy, cao sáng, không hơn chi tri đt và hai vng nht, nguyt. Nhưng mt tri đng bóng ri thì xế, mt trăng đy ri li vơi, cho đến gò cao thành vc thm, bin c hóa nương dâu, cuc đi vn thế, thnh suy thay đi là l thường. Xưa nay đo đc ai hơn Khng T, mà Ngài còn phi b vây nơi đt Khuôn, tuyt lương  nước Trn, đi châu du lit quc kết cuc không được gì, ch có mt người con được năm mươi tui li chết, may còn đa cháu đ ni t tông. Thp hơn mt bc, như Thy Nhan Uyên, Nhim Bá Ngưu thì mng vn; Thy T H, T Kỳ Minh li mù lòa; ông Khut Nguyên chết chìm; Thy T L b bm mm. Như các Ngài y là nhng bc đi Thánh, đi hin mà cũng không tránh được nghch cnh, nhưng vì biết thun theo s mng, nên vn tùy phn an vui. My điu này đi vi thy, t h như không phước, nhưng tm gương đo đc ca các Ngài trăm năm v sau, t vua đến dân ai không kính ngưỡng? Thế thì phước còn chi hơn? Trong đi sng, con người tính đ điu, làm đ vic, xét li chng qua vì vn đ ăn mc và đ s nghip cho con cháu mà thôi. Nhưng ăn thì canh rau có th qua ba, cn gì hi v sơn hào; mc thì bô vi cũng đ che thân, la là nhiu hàng gm vóc? Còn con cháu holàm rung, hoc bán buôn, đu t nuôi sng được, hà tt phi giàu có trăm vn? V li, xưa nay nhng k vì con cháu mưu sinh cuc vinh hin muôn đi, có ai bng Tn Thy Hoàng? V bo chúa này dp tr sáu nước, đt sách chôn hc trò, thâu góp hết binh khí trong thiên h đ đúc chuông, bn ý mun cho dân ngu yếu đng không th làm lon. Đâu dè, khi Trn Thip đng lên, anh hùng đu ni dy, cơ đ nht thng không đy mười ba năm bng tiêu tan, cho đến con cháu cũng b dit tuyt. y là mun cho con cháu vinh hin, tr li thành cnh bi vong. Đi Hiến Đế nhà Hán, Tào Tháo mượn chc Tha Tướng chuyên oai quyn ln ép vua, mun cho con cháu mình làm chúa trong nước, không ng đến khi chết, thi hài chưa kp lim, Tào Phi đã soán nghch, bt tn thiếp ca cha làm cung phi ca mình. Tháo chết ri đa vào ác đo, tri hơn mt ngàn bn trăm năm, đến đi Càn Long nhà Thanh,  Tô Châu có người giết heo, khi m ra thy trên lá phi có ch “Tào Tháo.” Mt người láng ging mc kích cnh tượng y, rt s hãi, lin xut gia tu hành, pháp danh là Pht An, chuyên tâm nim Pht được sanh v Tây phương. Vic này có ghi trong Tnh Đ Thánh Hin Lc. Như Tào Tháo mt đi phí hết tâm cơ lo cho con cháu, tuy được làm Hoàng Đế nhưng ch trong vòng bn mươi lăm năm thì mt nước. V li khi còn  ngôi, mi năm thường cùng các nước Đông Ngô, Tây Thc đánh nhau, có my lúc được an nhàn? T đó v sau tri qua các triu: Tn, Tng, T, Lương, Trn, Tùy, và Ngũ Đi: Lương, Đường, Tn, Hán, Châu đu không lâu dài. Tu trung duy có đi Đông Tn là bn nht, nhưng cũng ch được mt trăm l ba năm, ngoài ra thì hoc hai ba năm, tám chín năm, hoc mt đôi mươi năm, bn năm mươi năm, lin tiêu dit. Đây là ch k my đi chánh thng, nếu nói đến nhng ngy triu tiếm cướp, thi gian li còn ngn hơn na. Bao nhiêu vua chúa ca các triy, bui sơ tâm đu mun đ s vinh hoa cho tông tc, song tìm đến s tht, trái li khiến cho con cháu mang ha cướp giết, mt tuyt ging dòng.

Cư sĩ nên suy nghĩ: sang như thiên t, giàu có bn bin, còn không th bo đm cho tông tc hưởng phước lâu dài, hung na là k phàm thường, t vô lượng kiếp đến nay to nghip ác dy như đt lin, sâu như bin c, mà mun cho nhà ca thường hưng thnh, có phước không hư? Phi biết s vt gia đi đu gi di như mng, huyn, bóng, bt, sương, chp, như trăng đáy nước, hoa trong gương, như ánh chp chn lúc tri nng và như thành ca thn Càn Thát Bà (nhc thn ca Thiên Đế, thành quách đu là huyn hin), không có chi là chân tht. Duy có mt nim tâm tánh ca ta vn hng còn, trùm sut xưa nay, không biến đi, hư hoi. Tuy không biến hoi mà thường tùy duyên: theo duyên ng tnh thì làm Thanh văn, Duyên giác, B tát, Pht, vì công đc sâu cn, nên phm v có cao, thp; theo duyên mê nhim thì lc vào cõi Tri, Người, A tu la, Súc sanh, Ng qu, Đa ngc, do ti phước nng nh, nên s kh, vui, có ngn, dài. Nếu người không biết Pht pháp thì đã đành, cư sĩ đã sùng tín đo Pht, sao chng nhân cnh nghch y mà nhìn rõ cuc đi, b mê theo ng, mt lòng nim Pht cu sanh v Tây phương vượt no luân hi, lên ngôi t Thánh; đó có phi là nhân ha nh mà hưởng phước to chăng? Đường li thoát ra là thế, cư sĩ li c bi ri mơ màng như ngây như di; thng hoc lo bun quá đ đến mt thân mng, thì chng nhng chính mình nhikiếp b trm luân, mà v yếu con côi cũng bơ vơ, làm sao t lp? Như thế là cư sĩ mun hi mình và làm liên ly cho người. Sao li ti tăm đến thế?

Kinh nói: “B tát s nhân, chúng sanh s qu.” Vì tránh qu kh nên B tát dt trước nhng nhân ác, do đó ti chướng tiêu tr, công đc đy đ, cho đến khi thành Pht mi thôi. Chúng sanh thường gây nhân ác, li mun khi qu kh, có khác nào k s bóng mình mà c chy trn dưới ánh mt tri? Nhiu người mi làm lành chút ít đã mong được phước ln, khi gp cnh nghch lin cho rng: “làm lành mc ha, không có nhân qu, ri t đó lui st sơ tâm, tr li chê bai Pht pháp. Nhng k y không hiu “lý nhân qu thông c ba đi”  “tâm mình có th ci to hoàn cnh”. Nhân qu thông c ba đi là thế nào? Như đi này làm lành hoc d, đi này hưởng phước hay mang ha, đó là hin báo. Đi này làm lành hoc d, đi sau được phước hay mang ha, là sanh báo. Đi này làm lành hoc d, đi th ba, th tư, hoc mười, trăm, ngàn, muôn đi, cho đến vô lượng vô biên kiếp v sau mi được phước hay mang ha, gi là hu báo. Hu báo thì sm chy không đnh, đã gây nhân tt có qu, đó là l t nhiên. Tâm mình có th ci to hoàn cnh là thế nào? Ví như có người gây nghip ác s phi vĩnh vin b đa vào Đa ngc, nhiu kiếp chu thng kh; ngườy bng sanh tâm s hãi, h thn, phát lòng B đ, đi d làm lành, tng kinh nim Pht, t tu và khuyên người, cu sanh v Cc lc. Do s hi cy, nghip Đa ngc trước kia lin tiêu dit, đi thành qu kh nh trong hin đi như: hoc b người khinh chê, hoc đau bnh, nghèo nàn, cùng gp nhng vic không va ý. Chu nhng khinh báo như thế xong, ngườy có th thoát đường sanh t, nhp Thánh siêu phàm. Như Kinh Kim Cang nói: “Nếu có người th trì kinh này mà b k khác khinh chê, người đó đi trước gây ti nghip đáng đa vào ác đo, do đi này b s khinh chê nên ti trước lin được tiêu dit, s chng qu Vô thượng B đ.”

Đây chính là nghĩa: tâm mình có th ci to hoàn cnh vy.

Ngườđi khi gp tai nn, nếu không oán tri, tt cũng trách người, ít ai nghĩ đến s tr nghip mà sanh lòng ăn năn cha ci. Phi biết: “trng dưa được dưa, trng đu được đu” là l đương nhiên, đã gieo chông gai, đng mong đến mùa gt được lúa nếp. Làm d mà vn hưởng phước, là đi trước vun bi ci phướđã dy, nếu không làm d thì phước còn ln hơn. Ví như con nhà giàu, ăn chơi bài bc, xem tin như rác, nhưng không lin b đói lnh, là do vì ca ci quá nhiu. Nếu mi ngày c như thế, dù cho gia nghip trăm vn, tt có lúc cũng gp cnh người mt nhà tan. Làm lành mà hay b tai nn, là đi trước trng gc ti đã sâu, nếu không làm lành thì ha càng ln hơn na. Ví như người phm ti nng chưa kp hành hình, li lp được công nh; vì công nh, chưa có th hoàn toàn ân xá, nên ci án nng thành nh. Nếu lp công mãi đến khi công to, không nhng tr hết ti trước li được phong hu bái tướng, tm đi đi.

Bc trượng phu phi vượt hn thường tình, đng đ cho ngoi vt làm ly đến thân. Gi s có vàng ngc đy kho, khi gic d đến cướp, phi b nhà trn chy, đng nên ôm ca mà đi chết. Bi vì vàng ngc tuy quí, nhưng sánh vi mng người, hãy còn kém hèn; đã không th gi được c hai, thôi thà b ca mà bo toàn thân mng. Như hin thi, tài sn ca cư sĩ đã hóa ra đng tro tàn, lo bun cho lm cũng vô ích, ch nên tùy duyên qua bui, gng sc nim Pht cu sanh Tây phương, đ cùng tn kiếp v lai lìa hn s kh, ch hưởng điu vui. Thế là do ha tai mà thành đo Vô thượng, sao vn còn mê mui đau bun?

Mong cư sĩ xét k li nhng li tôi nói, tt s ci được mi u su, như vt mây mù l v tri trong, nơi tai ương tìm thy hnh phúc, đi cơn nóng bc thành mát m, vui tươi. Bng c chp nê không tnh, chc khó tránh khi chng bnh kinh cung. Nếu mt khi bn tâm đã mt, tà ma s da vào; chng y dù có ngàn Pht ra đi, cũng không biết làm sao cu vãn được!

 

9/ Thơ đáp mt Cư Sĩ  Vĩnh Gia

 

 

I

 

 Vân Thê Đi sư lp pháp dy người đu t nơi ch bình tht đi vào. Nếu y theo đó tu trì, s được ngàn muôn yên n, quyết không đến ni được ít cho là đ và b ma da phát cung. Vương Canh Tâm chưa hiu rõ yếu ch nhp đo, đã vi t hào múa bút ln li mt sát tt c, tuy có tâm hong pháp, nhưng tht ra là gây ti phá hoi pháp môn. y cũng bi y không gn bc tri thc và t xét hai chng bnh: tim đp, ác mng ca mình. Nhng bnh y đu là triu chng ca nghip ác đtrước. Nhưng, hin cnh tuy có tt xu, chuyn biến ch ti nơi ta. Cnh xu hin mà chuyên tâm nim Pht thì nhân d s hóa ra lành, nghip ác đi trước tr thành v đo sư trong hin ti. Tiếc vì người đi phn nhiu b nghip ràng buc, không th ci to, nên thành ra cnh té giếng b đá rơi theo, trên kh li càng thêm kh!

Tha tâm thông có nhiu th không đng, nay xin nói ước v tâm thông ca nhng bc đc đo. Như Trù Am Đi sư, bt lun ai hi kinh sách gì, Ngài đu có th đc thuc rành r, không sai mt ch. Ti sao thế? Vì Đi sư nghip hết tình không, lòng như gương sáng; lúc có người hi đến nhng kinh sách h đã tng xem, Ngài lin nhìn vào nhng câu ch in trong thc th tám ca ngườy, đc li rành mch. Cho nên c đc nói: “Kinh pháp mt phen nhim vào thc thn, hng làm ging đo.” Vic trên đây có th làm bng c đ cho ta tin. Vì khi người xem kinh sách, bóng dáng ca nhng th y in vào tâm thc không mt. Bi vô minh che lp, nên lâu ngày h quên, nhng bc có tha tâm thông nhìn nơi tâm thc ca ngườy, tùy theo li hi đc li rõ ràng. Đến như có người hi nhng kinh sách h chưa được thy, bc tha tâm thông có th nhìn vào tâm thc ca nhng người khác đã xem ri, vì h mà đc li. Trên đây, là vic ly tâm người khác làm tác dng cho tâm mình, không phi nơi lòng các v y thường có bao nhiêu th kinh sách đã ghi nh lâu ngày không quên. Bi không hiu l này, nhiu người cho đó là phép chi kỳ l, tht ra ch là cnh trng nghip tiêu trí sáng, cõi lòng không không mà thôi.

Trong s phò cơ có rt nhiu linh qu gi mo tiên, Pht, Thánh, thn. Loài qu thp kém hoc khi không có tha tâm thông; hng cao thì biết được lòng người, nên có th mượn s thông minh trí thc ca người mà làm thi phú. Ông K Văn Đt có thut rng: “Cơ bút phn nhiu là vic di mượn ca hng ma qu linh thiêng. Mt đ n, tôi cùng người anh là Đn Nhiên có thí nghim v vic này. Tôi vn có thiên tư v thi văn mà ch viết d, anh tôi thì ch tt, song không có khiếu văn chương. Khi tôi phò bút thì thi t thông sut, nét ch lếu láo. Trái li, đến phiên anh tôi thì nét ch cng đp, thi t tm thường. Li mt vic, lúc hi đến ch bí yếu trong nhng bài ging bút mo ly ca người xưa, cơ lên nói: năm tháng lâu quá không còn ghi nh. Vì nhng l y, tôi biết là gi di.” Thế là loài qu tuy linh, song ch có th mượn được s hiu biết hin ti ca người. Đến như các vic trong tâm thc có, nơi s biết hin ti vì lâu nên quên, hoc nhng ch nghĩa chính mình không hiu, thì qu không th ch dn ra được. Cho nên tha tâm thông ca linh qu sánh vi bc đc đo, tht kém xa như tri vc. Tuy nhiên, vì hai viy có ch ging nhau, e rng cư sĩ b cơ bút mê hoc, tôi mi dn gii ra đây. Li xin nói thêm mt vic trong Tng Cao Tăng Truyn: Ngài Tăng Giám qua nhà Vương X Hu th trai, thy ch nhân đang cao ging ngâm nga xem ra dáng đc ý, nhân hi là đc văn gì? X Hu đáp: “Đây là quyn v trúng Tiến Sĩ ca tôi.” Giám mm cười mà rng: “Dưới thm gió mát, li có s thung dung như thế ư?” Nói đon, ly trong túi ra mt tp, bo: “Quyn ông đang đy có phi là đây chăng?” X Hu xem ra thì chính là văn t mình đã làm trong ngày thi, lin nói: “Đây là bút tích ca tôi chép ra sau này.” Tăng Giám bo: “C nhiên không phi là nguyên tác ca ông, điu đó tôi vn biết.” X Hu nói tiếp: “Nhưng sao trong túi kia li có bài văn y?”Sư đáp: “Không phi ch riêng bài này, t khi ông đc sách đến gi, cho đến nhng lúc đùa ct, mt nét bút nét v, nơi túi ca tôi đu có đ.” X Hu kinh s, không dám hi na. Ngài Trù Am ch có tha tâm thông, chưa thy có thn thông. Tăng Giám Đi sư đã có tha tâm thông li kiêm c thn thông, có th đem bóng dáng kinh sách trong tàng thc, hin thành hình cht đưa cho người xem, kỳ tht trong túi ca Ngài không cha sn th y.

Gn đây,  Thượng Hi đàn cơ bút m ra rt nhiu. S ch dy b d làm lành và nhng thuyết luân hi nhân qu thin cn ca các đàn y, đu rt có ích cho thế đo, lòng người. Nhưng my đim nói v cơ tri, Pht pháp, thì không khi mơ h, lm ln. Chúng ta là đ t Pht, không nên bài bác vic đó, vì có tr ngi cho s làm lành ca người, song cũng chng nên ph ha khen ngi, vì s mang li đem đic đoán vin vông khiến cho Pht pháp hư lon, chúng sanh nghi lm. n Quang này t xét mình nhiu nghip chướng nhưng quyết không dám theo tình b lý, gây s lm li cho người. Nhng li trên đây xin châm chước tình lý mà làm theo mi khi điu t hi.

Mười món li ích ca s nim Pht, xin xem chương “Thp Chúng Thng Li”  nhng trang sau cui b Tnh đ Ch Qui. “Hi hướng” là tâm suy nghĩ, ming phát ra li tín nguyn, đem công đc mình xoay v nơi nào.

Viy nên đ vào khong sau lúc công khóa ti và bui trưa, khi tng kinh nim Pht xong. Nim Pht phi t mai đến chiu không nên h dt; nếu trong tâm hng có nim cu sanh, cũng là thường thường hi hướng. Các Kinh Đi tha đu khiến cho chúng sanh mau thành Pht, ch tiếc phn đông khi đc kinh thiếu lòng chí thành, nên không được hoàn toàn li ích. Chương “Đi Thế Chí B tát”  quyn năm Kinh Lăng Nghiêm, chính là li ch dy ti thượng v tông Tnh đ. Câu “Người quân t hc vì mình” là ý nói bc quân t mi nim đu t xét mình, xem có trái đo cùng chăng? Cnh gii “thc ng như mt”, ch có dng công phu đáo đ mi được. Nhưng nếu khi thc hng nhiếp tâm nim Pht, lâu ngày t nhiên dù trong mng cũng ít khi vng nim.

 

II

 

 T đ cui đông đến h tun tháng ba năm nay, tôi có tiếp được bn phong thơ, thc ăn, vi, và bài vn đáp ca anh em cư sĩ cùng T Quân, do Sư Thn đem đến. Như thế, đ thy cư sĩ tha thiết vì đo, mến trng tôi đã quá nhiu! Trước tiên, tôi có ý mong T Quân đến, kế li vì kim duyt b Văn Sao đ cho người in ra, mt hơi suy kém, nên mi chm li phúc đáp. Bc thơ kỳ tháng chp ri, tht là đúng vi nghĩa “bn bè dùng nhân giúp nhau”, ch có điu suy tng n Quang quá nhiu, khiến cho người càng thêm h thn!

Nhân đo có năm ging ln: vua tôi, cha con, anh em, chng v và bn bè. Nhưng ti sao trong năm luân y li không nói đến Thy? Vì Thy là bc thành tu phn đc dc cho ta, cũng như cha, dt dìu khuyên bo đ ta nên người, cũng như anh, nên Ngài Mnh T nói: “Thy là cha anh.” Li na, Thy thường nhc nh giúp ích ta nhiu vic cũng như bn, nên nhà Pht thường gi: “Tìm Thy hi bn.” n Quang này t xét mình kém phn tht đc, không có ý mun làm Thy người, ch mong  đa v bè bn đ giúp đ khuyên nhc ln nhau mà thôi. Nhưng nhiu v chng suy lượng giùm, nên tôi đã thiếu s răn trách, li còn không được nhc bo đến na! Cư sĩ mong tôi thân chng Tam mui, li e có trái vi ch hy vng, nên không nài khó nhc, viết thơ khuyên lơn. T khi tôi buc tóc th hc đến gi, chưa gp được người ích hu như thế. C ch y làm cho n Quang này va cm đng va t thn! My ch ti chết là li by tôi can vua, cư sĩ đem dùng vi Thy bn rt không phi cách. n Quang túc nghip sâu nng, khi sanh ra va được na năm, b đau mt luôn c sáu tháng. S thng kh trong lúc y tht vô cùng, tr khi ăn và ng ra, không mt khc nào ngt tiếng kêu gào khóc lóc. Nhưng may nh căn lành đi trước, nên còn được thy ánh sáng mt tri. Đến tui thành đng được hc tp li do nghip cũ dn dt, ung lm thuc đc bài báng Pht pháp ca bn Hàn Dũ, Âu Dương Tu. Kế đó đnh tâm xét nghĩ biết mình li lm, lin sanh lòng h thn, quy y Tam bo xut gia làm tăng. Nếu lúc by gi không nh sc Tam bo thm gia b, khiến cho s biết t tnh, thì tôi đã sa vào ngc A tỳ chu vô lượng s kh, đâu còn được cùng các v ch đông nói Tây, lun v t lc, tha lc như ngày hôm nay ư?

Kỳ tht hoàn mãn, Tam mui chưa thành, do tôi tinh thn suy kém mà cũng bi túc nghip sâu dy. Nhưng Pht đã không b người chướng nng, xin cũng nh chút công hnh y đ được vãng sanh. Phép Thp Nim Ký S không phi là S Tc (đếm hơi th), ch có đim ghi nh t mt đến mười có hơi ging vi li S Tc mà thôi. Trong Liên Tông Bo Giám, li lm đ là đếm đến trăm, ngàn, muôn. Vì e cư sĩ không biết mà th hi, nên tôi mi dn ra đ chng rõ, vy không nên gi đó là phép S Tc Trì Danh. Mun chng Tam mui, đã có li ch dy xác đáng ca Pht, T, sao li đòi hi đến ch chng ca tôi mi chu làm theo? Kinh A Di Đà nói: “Gi ly danh hiu, hoc mt ngày cho đến by ngày, mt lòng không lon.” (Đây là li t l không nên chđnh. Nếu căn tánh Đng giác, mt nim lin được không lon, đi gì mt ngày? Như căn tánh nghch ác, dù trn đi cũng khó được nht tâm, hung chi by ngày?) Quán Kinh nói: “Pháp thân chư Pht Như Lai vào tâm tưởng ca tt c chúng sanh. Cho nên khi tâm các người tưởng Pht, tâm y chính là ba mươi hai tướng, tám mươi v đp tùy hình, tâm y tưởng Pht, tâm y là Pht.” Kinh Lăng Nghiêm, Đi Thế Chí B tát nói: “Nhiếp c sáu căn, tnh nim ni nhau, được Tam Ma Đa, đây là bc nht.” Trong bài k la căn Viên thông, Ngài Văn Thù bo: “Nghe vào, nghe tánh mình. Tánh thành đo Vô thượng.” Kinh T Thp Nh Chương dy: “Tu tâm là thế nào? Gi nó li mt ch, thì không vic gì chng xong.” Ngài Mng Đông bo: “Tht vì sanh t, phát lòng B đ, ly tín nguyn sâu, trì danh hiu Pht.” Mười sáu ch này là cương yếu ca tông Tnh đ. Mun tu Tam mui sao không ly Thánh ngôn làm lượng, trit đ tuân theo nhng li trên đây, li dùng tôi là k phàm phu nghip chướng mà làm mc thước, há chng trái ngược lư?

Nhưng, ly phát ra chng phi không duyên c. Chc có l vì thy trong quyn Di Đà Trung Lun thut rõ cnh gii ca Tĩnh Nht Đi sư, và Vương Canh Tâm t bo là đc tâm truyn vi Ngài, nên cư sĩ cho rng tôi cũng có nhiu cnh l không th nghĩ bàn, và bí quyết truyn th đó chăng? Cư sĩ nên xét: Tam mui dch là chánh đnh hay chánh thy là th vng tan chơn hin, lng l sáng sut, trong y đâu có cnh gii gì? Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tròn chng qu B đ là không chng đc chi c.” Người tu thin vì ch cy sc mình, không cn Pht gia b, nên trong khi công phu đc lc, chân vng công kích ln nhau, thường có nhiu cnh gii thon thot hin. Ví như lúc mưa to sp tnh, mây mù tn mát, tri đang u ám bng l ánh sáng, phút chc li thay đkhông lường. Nhng cnh giy, nếu chng phi người có đ đo nhãn, tt khó ni phân bit. Nếu lm nhn cho là tht, s b ma da phát cung, không th cu cha. Khác hơn thế, người nim Pht dùng lòng tín nguyn, tha thiết trì hng danh muôn đc, thì như mt tri chói sáng gia hư không, như đi con đường thng rng, không nhng qu m tuyt tích mà vng nim cũng lng tiêu. Suy cho cùng, chng qua nim đến công lc tinh thun, thì toàn tâm là Pht, toàn Pht là tâm, tâm Pht như mt mà thôi. Lý và hnh này tôi còn e mi người không hiu, vn mun tuyên dương đ nêu cao bn nguyn đ khp chúng sanh ca Pht, đâu dám giu kín đ truyn riêng cho cư sĩ hay sao? Nếu có bí quyết truyn th riêng nơi ch n khut tc là tà ma ngoi đo, không phi Pht pháp. Nhưng n Quang tht cũng có ch diu quyết ch riêng mình được, nay nhân cư sĩ thnh cu, không ngi gì đem ra bày t vi các hàng Pht t trong thiên h. Diu quyếy là gì? Là chí thành, là cung kính. Điu này c thế gian đu biết, đo lý này c thế gian đu mui! n Quang do mun tiêu tr ti nghip sâu nng và báo đáp ân Pht, hng đ ý tìm cu gương sáng tu trì ca c đc, nên được biết rng chí thành cung kính là bí quyết rt mu đ vượt phàm lên Thánh, thoát no luân hi. My đim này, đi vi nhng người hu duyên tôi đã thường thường khuyên nhc. Nên biết thành kính không phi ch đ riêng cho người hc Pht, mà tt c mi vic nếu mun được tinh nht, phi ly đây làm nn tng.

T Quân có trng linh căn t kiếp trước, thân quyến th Pht my đi, khi nh đã được đy đ v gia hun, ln lên li tri đôi ba mươi năm hc hi lch duyt, vì sao li b nơi huyn diu, dùng ch tm thường, mến chung văn tôi mà cho in ra như thế? Nên biết, s hong pháp li sanh quí  nơi biết thi cơ. Cách điu tr đáng dùng cho căn bnh người đi nay, bc thông hiu Pht giáo không chu ch rõ, duy nói nhng phương pháp cao huyn, phn nhiu là nhng th thuc không hp vi bnh. Đôi khi do th thuc quí y, bnh li tăng thêm. n Quang cũng như k dung y, chng nhng không rõ gc bnh li không hiu tánh cht thuc men, ch đem hoàn Vng A Dà Đà (A Dà Đà dch là Ph Tr, thuc tr tt c bnh) ca tiên t bí truyn, bao nhiêu chng hư, tht, hàn, nhit, đu dùng hoàn này cho ung. Nếu ai có lòng tin, dùng th s đượan lành. Cho đến nhng chng bnh Tn Hun, Biến Thước đu bó tay, khi ung thuc này vào, lin thy hi sanh khi t. Cho nên đi vi nhng k có tâm cu người giúp đi, tôi không ngi gì đưa thip qung cáo, đ tt c bnh nhân đu được ung hoàn này. Tôi vn biết các phương thuc ca Tn Hun, Biến Thước là nhim mu, song chng khuyên người dùng, vì bnh thuc v túc nghip không phi sc ca thn y tr được...

Chng tht tướng ngay đi hin ti, chng phi thế gian tuyt không người, nhưng e cư sĩ chưa có căn lành y. Nếu tôi không nói rõ duyên c, hoc khi cư sĩ chí cao mà hnh chưa kp, vì quá vng tưởng đến s chng qu, lâu ngày sanh ra bnh cung lon tán tâm. Chng y cu siêu hóa ra đa, mun khéo tr thành vng, kết qu cũng không thoát khi luân hi. Phi biết, ng được lý nh không duy hng phàm phu li căn mi có đ kh năng. Như bc người Viên Giáo  nơi v danh t tuy chưa phc đon phin não, mà s t ng cùng chư Pht vn đng. Nếu nói ước v Tông, cnh giy gi là đi trit đi ngước v Giáo là đi khai viên gii. Nhưng đi ng cùng viên gii, không phi ch t ng mt cách mường tượng đâu! Như Bàng Cư Sĩ nghe Mã T nói câu: “Đi khi nào ngươi ung mt hp hết nước sông Tây, ta s nói cho”, lin quên ngay s huyn gii. Ngài Đi Hu Kiu nghe Viên Ng Thin sư ngâm câu: “Gió nm vào đin các, hơi mát vn vơ sanh”, cũng thế. Trí Gi Đi sư tng Kinh Pháp Hoa đến câu: “Đó là chơn tinh tn, gi là chơn pháp cúng dường Như Lai...” trong phm Dược Vương Bn S, thot rng sut đi ng, lng l nhp đnh, thy hi Linh Sơn nghim nhiên chưa tan. Ng được như thế mi gi là đi trit, đi ng, đi khai viên gii. Đó là ng đo, nếu nói đến chng đo vào th tht tướng, thì li không phi là vic làm ca hng c phược phàm phu. Ngài Nam Nhc Hu Tư, Thy đc pháp ca Trí Gi Đi sư, là bc có thn thông trí hu ln. Khi sp tch, có người hi đến ch chng Ngài đáp: “Ta ban sơ ch cu Đng Luân, nhưng vì lãnh chúng quá sm, ch chng được Thiết Luân mà thôi.” ng Luân tc là v Thp tr, phá vô minh, chng tht tướng, vào cõi thc báo, phn chng Tch Quang. Bc sơ tr có th hin làm thân Pht trong mt trăm cõi Đi Thiên đ giáo hóa chúng sanh. Nh tr thì mt ngàn cõi, tam tr mt muôn, mi tr s tăng lên gp mười. Thiết Luân tc là v Thp tín. Sơ tín dt kiến hoc, tht tín dt tư hoc, bát, cu, thp, tín phá trn sa, phc vô minh. Ngài Nam Nhc th hi ngôi Thp tín, thì còn chưa chng được tht tướng). Trí Gi Đi sư là đc Thích Ca hóa thân, lúc sp tch, có k hi: “Đi sư chng đến v nào?” Đáp: “Nếu ta không lãnh chúng, tt thanh tnh sáu căn, vì tn mình li người nên ch được ngũ phm.” (Sáu căn thanh tnh tc là v Thp tín, như phm Pháp sư Công Đc trong Kinh Pháp Hoa đã nói. Ngũ phm là v quán hnh, phc hết ngũ tr phinão mà chưa dt được kiến hoc). Ngu Ích Đi sư lúc lâm chung có bài k rng: “Danh t v đây là Pht nhãn. Ri ra biết s phó ai?” a v danh t viên ng tng tánh, ch t ng đng vi Pht, song còn chưa phc được kiến, tư hoc, hung chi dt tr? Người đi ng  đi Mt pháp, phn nhiu thuc v hng này. Xem như Ngài Ngũ T Gii thân sau làm Tô Đông Pha, Ngài Tho Đường Thanh làm Tăng L Công, y cũng còn khá. Kế đó, Ngài Hn đu thai làm con gái ông Châu Phòng Ng, và t hơn hết là cao Tăng  non Nhn Đng kiếp sau làm Tn Ci. Bi các v y tuy ng sut lý tánh mà chưa dt được phin hoc, nên mt phen th sanh, phn nhiu quên mt túc căn). Như Ngu Ích Đi sư th hi v danh t. Thiên Thai Trí Gi  v quán hnh, Nam Nhc Hu Tư  v tương t, thì thy tht tướng pháp không d gì chng. Tht ra bn đa ca ba Đi sư đu không th suy lường, nhưng vì s người đi sau chưa chng xưng rng chng, nên các Ngài dùng thân thuyết pháp khiến cho hàng hu tn xét mình h thn, dt b tánh t th, ngông cung. Ân đc th hin răn dy, dù nát thân cũng khó đn đáp. Vy cư sĩ nên t lượng xem mình có th siêu vit ba Đi sư y chăng? Tt hơn là nên nim Pht tng kinh, bi đp căn lành, ngày kia sanh v Tây phương tùy nơi công hnh cn sâu ln ln tu tp, thì sm mun gì cũng s được đo quy là con đường duy nht đ chng tht tướng ca người đi nay đó!

Kim Luân Chú Pháp không cho hi vic, ch được hi căn lành hoc pháp môn mà thôi. Nhưng chúng sanh đi Mt pháp chng lun căn lành có hay không, đu quyết đnh phi chuyên tu Tnh đ, vy ch nên hi pháp môn làm chi. Đến như căn lành nếu có, nên gng sc tu thêm, không li càng phi c công vun bi, cũng không cn hi. Ch nên trì chú giúp tu Tnh nghip, ch vi tác pháp làm nhc ln Pht Thánh. Nếu thường tác pháp mà tâm không cung kính, chí thành, s khi các vic ma. Duy có mt điu nên tác pháp, nhưng không phi là phn vic ca cư sĩ. Ví như có người phát tâm xut gia, mình chưa chng đo, không th quán căn cơ ngườy, mi cu Pht t bi thm ch th xem có nên thâu nhn chăng? Làm như thế đ tránh mi t: hng vô li ln vào phá ri Pht pháp. Người đi nay trong s thâu đ t, ch mun cho được nhiu. Đôi khi biết rõ đó là k h lưu, cũng gp gp dung np s có mt đi, không nghĩ gì đến s la chn. Tâm tham danh li, ưa quyến thuy, khiến cho Pht pháp suy tàn đến mc khó ni chn hưng!

Nghip chướng nng, tham gin nhiu, thân suy yếu, tâm kinh s, phi mt lòng nim Pht, lâu ngày các chng y t tiêu tr. Trong phm Ph Môn nói: “Chúng sanh nào nhiu dâm dc, gin hn, ngu si, nếu thường nim cung kính Quán Thế Âm B tát, s được xa lìa các nghiy.” Nim Pht cũng như thế, song phi dùng hết tâm lc, đng tp tưởng, nghi ng, thì cu vic gì cũng được. Đc Quán Thế Âm B tát có nhân duyên rt ln vi chúng sanh cõi Ta bà, ngoài thi nim Pht, nên kiêm trì danh hiu Ngài. Hoc gi, kiêm trì chú Lăng Nghiêm hay Đi Bi cũng được.

Đến như vic xem kinh, nếu mun làm Pháp sư vì chúng tuyên dương, nên trước xem chánh văn, sau s xem lchú s. Nếu xét thy mình tinh thn không đy đ, kiến gii chng hơn người, thì hãy chuyên nim Pht, ch nên phí tâm lc, hao tháng ngày đi theo vic không cn kíp y. Như mun tùy phn duyt kinh đ được thêm phn li ích, phi gi ba nghip trong sch, khn thiết chí thành, ly Pht ri ngi đnh tâm giây phút, sau s gi kinh tng ra tiếng hay lng l xem. Khi y phi ngi ngay ngn như đi trước Pht nghe li viên âm, không dám móng khi mt nim biếng tr, phân bit, chng nên tìm hiu văn nghĩa, ch mt mch xem thng t đu đến cui. Duyt kinh như thế, nếu là bc li căn, có th ng lý nh không, chng pháp tht tướng, dù người căn tánh ti chm, cũng được tăng thêm phước hu, nghip chướng tiêu tr. Đc Lc T bo: “Ch xem Kinh Kim Cang cũng có th minh tâm kiến tánh", tc là nói li xem trên đây, vì thế mi gi là ch. Y như thế mà duyt kinh, thì xem các Kinh Đi tha đu có th minh tâm kiến tánh, đâu riêng gì Kinh Kim Cang? Ch nên mt mt theo s phân bit, tìm hiu: câu này nghĩa ra sao, đon này ý thế nào? Bi vì đó thuc v vng tung suy lường, không th thm hip vi tâm Pht, ng sut lý kinh, và làm nhân duyên cho s dit ti sanh phước. Xem kinh vi tâm phân bit, nếu biết cung kính thì còn có th gieo chút căn lành, bng biếng tr khinh thường chc không khi đem nhân lành mà gây qu ác, s kh s vô cùng! Người xưa rt chuyên trng nghe kinh vì tâm khó sanh phân bit. Như có người tng kinh ra tiếng, mt ngườ gn bên nhiếp tâm lóng nghe mi câu ch rõ ràng, chng dám duyên theo cnh bên ngoài, vì nếu xao lãng mt chút thì b gián đon, văn nghĩa không được sut thông. Khác hơn thế, người tng bi có văn kinh đ y c, dù không chuyên chú cũng đc được rành r. Người nghe ch nương theo tiếng, nếu phóng tâm lin đt mt s liên lc. Nghe kinh được như thế, công đc đng vi người tng cung kính chí thành. Nếu người tng kinh kém lòng thành kính, công đc li không th sánh kp người nghe.

Đi nay, nhiu k xem Kinh Pht như giy cũ, trên bàn kinh đ nhng tp vt ln ln, ba bãi. Khi duyt kinh, không ra tay, súc ming, có khi rung lc thân mình, vt tréo chân lên, thm chí buông ra hơi dưới, chng kiêng s chi c. Như thế đâu phi mun dit ti sanh phước, mà mun cho loài ma vương phá hoi Pht pháp, chng minh khen ngi mình là “người bao quát dung thông, rt hp vi đo mu Đi tha không còn chp trước.” Hàng Pht t chơn tu trông thy ch còn lng l, thương bun, thm rơi l than th cho cnh ma quyến thnh hành, không biết làm sao cu vãn được! Thu xưa, Ngài Trí Gi tng kinh bng rng sut t ng lng l nhp đnh, nếu có tâm phân bit thì đâu được như thế ư? Mt v c đc t Kinh Pháp Hoa, chăm chú quên c muôn duyên, đến tri ti vn còn ngi viết. K th gi đi vào thưa “Tri ti lm ri, sao Thy còn t kinh được?” V y lin git mình xem li thì đã ti sm không thy bàn tay. Khi duyt kinh, tham thin, trì chú, nim Pht, nếu đng mt s chuyên tâm như thế, dng công lâu, s có ngày được sut thông, t ng. Đi Minh, Ngài Tuyết Kiu Tín Thin sư, ngườ thành ph Ninh Ba, trung niên xut gia, dt không biết mt ch. Nhưng nh công kh hnh, siêng năng tham cu, nhn vic khó nhn, làm vic khó làm, không bao lâu Ngài bng đi trit đi ng, nhng li nói ra đu hip vi thin cơ. Ri t đó ln ln Ngài t biết đc, viết, không my lúc đã nghim nhiên là mt nhà thông thái bút pháp tung hoành. Nhng s li ích như thế đu là nơi tâm chuyên tinh tham cu, không phân bit mà có. Người duyt kinh nên ly đây làm gương mu. Tp Ng Lc ca Tuyết Kiu Tín Thin sư đã được b vào Đi Tng Kinh nhà Thanh. Tn sĩ Đàm To Am, mt bc thc hc quy y vi Thin sư, có khc bia hơn muôn li đ ca tng đo hnh ca Ngài. Vy khi duyt kinh quyết không nên khi lòng phân bit; được như thế, vng tưởng s t lng chìm, tánh thiên chơn lln hin rõ.

Nếu mun nghiên cu kinh đ hiu nghĩa lý, hoc chú s ra, nên dành mt thi riêng ch chuyên v viy. Lúc nghiên cu tuy không nghiêm cn bng khi xem, nhưng cũng chng nên toàn không cung kính, bt quá có đôi chút thơ thái hơn mà thôi. Như chưa được nghip tiêu trí sáng, phi ly s duyt kinh làm ch, phn nghiên cu ch nên ph lược. Chng thế thì cùng năm mãn tháng c mãi theo vic nghiên cu, dù cho tìm hiu được như vt mây bày trăng sáng, m ca thy non xanh, cũng ch thêm ngun bin bác trên đu môi chót lưỡi, có can thip gì đến s sanh t đâu? Ri ngày ba mươi tháng chp đến nơi, quyết đnh không dùng mt my may nào được! Nếu có th y như cách trên mà duyt kinh, thì nhng nghip tham gin tình chp ln ln tiêu tan, trí hu tr nên sáng sut. Bng chng thế, đã không được s tht ích, li còn e do nghip lc đi trước, dn sanh tà kiến, bác không nhân qu, nhng phin não dâm, giết, trm, di, s kế tiếp nhau ni lên như la cháy bng. Lúc y đôi khi li còn cho mình là người tu Đi tha, tt c đu không ngi, đem câu “Tâm bình cn gì gi gii" ca Lc T, t bào cha:“phá gii mà không phá mi tht là gi gii.” Trên đường tu hành có nhiu ni him nguy, chơn pháp rt khó được là như thế! Vì l y, chư T phn nhiu đu ch trương tu Tnh đ, đ nh sc t ca Pht dp tr nghip lc khiến cho không phát hin. Vy cư sĩ nên ly s nim Pht làm chánh, duyt kinh làm tr. Trong các kinh như: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Kim Cang, Niết bàn, Viên Giác, hoc chuyên chú mt b hay luân phiên mà xem. Phép duyt kinh quyết không nên khác vi li tôi nói. Nếu th ơ không kiêng s, tt b nhng tình kiến phân bit làm mt s li ích ln, ti nghip s vô cùng!

Lúc trước tôi cho rng cư sĩ cùng Sư Thn đu đã tin trit đ pháp môn Tnh đ. Đến khi xem bài văn co ca cư sĩ hi T Quân, thì thy nói mun trì chú và nghiên cu gii hc. Li bo: “V công đc ca mt chú, trong tông Tnh đ không thy có s cao siêu như thế, nên lòng nao nc chưa biết có nên theo cùng chăng?” Cư sĩ th xét mình là căn cơ bc nào, mà li mun thông đt tt c pháp môn như thế? Tôi ch e s tán lon bt đnh y lâu ngày có th làm cho cư sĩ ri tâm mê mui đó thôi. Còn Sư Thn thì cho rng: “Theo Mt Tông chú lc đi đến đâu, dù là mt chút hơi bay bi dính, chúng sanh nơi đó đu được gii thoát. Tnh Tông không có s li ích như thế!” Phi biết, trì chú tuy công đc vô lượng, nim Pht há không năng lc chng nghĩ bàn? Sao chng xem đon: Chúng sanh phm ti Ngũ nghch Thp ác, khi sp chết tướng Đa ngc hin, nim Pht vài tiếng lin được vãng sanh? Li há không thy trên hi Hoa Nghiêm, các Đng giác B tát chng đng vi Pht, còn phát mười đi nguyn vương hi hướng Tây phương đ cu viên thành qu giác đó ư? Và, nếu môn Tnh đ không thù thng, ti sao chư Pht, T, cho đến ngàn kinh muôn lun đu ân cn cn k khuyên bo tu trì? Tht ra, các pháp môn Đi tha đu viên diu, ch vì chúng sanh duyên có cn sâu, căn cơ có sanh, thc, thành th s li ích có khó cùng d đó thôi! Ngài Thin Đo là đc A Di Đà hóa thân, trong khi khai th v chuyên tu, e rng hành nhơn tâm trí không đnh, nên đã khuyên dy: “Dù cho bc Thánh trong bn qu, hoc hàng B tát  nhng v tr, hnh, hướng, đa, nhn đến mười phương chư Pht đy c hư không pháp gii đu hin thân phóng quang, bo hãy b môn Tnh đ, các Ngài s truyn dy pháp môn thù thng, cũng chng dám vâng theo, vì trước đã quyết chí chuyên tu Tnh đ nên không th rút li nguyn.” Thin Đo Hòa thượng biết trước người đi sau hay “đng núi này trông núi n" ri không có đnh kiến, nên mi nói ly. Li vàng ngc trên đây, chính nhng k đã tôn Ngài làm Thy còn ít biết vâng theo, hung chi người chưa nghe hiu? Mt pháp môn rt hp lý hp cơ như thế  trước mt mà đành b qua, li đi theo con đường nghip thc mơ màng, không thin, không tnh, há chng phi là nghip ác đi trước xui khiến hay sao? Thương thay!

Lý nh không, tc là ngã không và pháp không. Ngã không là biết rõ trong năm m hoc sc hoc tâm (sc là sc thân, sm, tâm là th, tưởng, hành, thc) đu do nhân duyên hòa hp sanh ra, khi nhân duyên chia lìa, lin mt, không tht có cái ta làm ch t. Pháp không là thu sut năm m đương th vn không. Tâm Kinh nói: “Soi thy năm un đu không" chính là nghĩa này. Lý pháp không đây tc là tht tướng, do phá vô minh chng được, nên nói: “Vượt qua tt c kh ách.” Li lý th pháp thân lìa hn nhng tướng: sanh, dit, đon, thường, có, không, mà làm căn bn ca các tướng, rt là chân tht, nên gi tht tướng. Tht tướng này chúng sanh cùng Pht vn đng, mà hàng phàm phu, Nh tha do vì mê b nên không được th dng. Ví như t mình có ht bo châu trong vt áo, vì không hay biết nên phi chu nghèo hèn. Ng đo là trng thái thông sut rõ ràng, như mây tan trăng hin, ca m núi bày, li như người mt sáng trông thy đường v, và cũng như người t lâu nghèo kh bng gp kho báu. Chng đo là như theo đường cũ v đến nhà phi chân ngi ngh, li như đem kho báu y tùy ý tiêu dùng. Ng thì k đi tâm phàm phu, kiến gii đng vi Pht, chng thì bc sơ đa không biết ch ct bước ti lui ca nh đa. Hiu được nghĩa ng và chng này, t nhiên chng khi lòng khinh mn bc trên, cũng không sanh tâm lui st, mà ý chí cu sanh Tnh đ dù muôn trâu vn không th kéo lôi.

Thi này là thi bui nào? Nn binh la đang lúc ly lng, nam Bc đánh nhau, trong ngoài chiến lon, ba bn năm gn đây, s người chết đến hng triu. T xưa đến nay chưa nghe có s thm thiết như thế! Li thêm các tai biến: bão lt, đng đt, ôn dch, tiếp din thường thường. Riêng v nn nng lt, không đy mt năm có khi đến đôi ba ln. Vt giá vì thế mc gp bi hơn trước. Lúc này, may mà được sng, dám không gng sc chuyên tu Tnh nghip đ cu vãng sanh ư? N đem thân người khó được, mơ màng theo nhng pháp tu không hp thi cơ ư? Hin gi nếu không gng sc chú đnh mt môn, ngày kia mun được nghe pháp huyn diu thng tt này, s e không còn dp may ít có như hôm nay na!


10/ Thơ gi N sĩ T Phước Hin

 

 

Tôi dng gót  Ph Đà đã hơn hai mươi năm, đi vi hàng Pht t ti gia, chưa tng ti lui giao thip. Gn đây, nhân có Thy Phước Nghiêm lên núi thăm, trong vòng không đy tun nht, Thy nhiu phen qua ch tht tôi  nói v s trinh tháo ca N sĩ. Mi khi gi đến viy, Thy li t v bùi ngùi cm đng. Lúc đó tôi có t bày ý kiến: N sĩ tuy trinh lit đáng khen, nhưng tiếc vì không biết đường li tu hành. Nếu cơn nào rnh tôi s gi li khuyên nhc, lược gii v cương yếu ca môn nim Pht, đ cho người tùy sc phn bước vào con đường Tnh đ. Nghiêm Sư nghe nói lin tán thành và hết li yêu cu. Vì thế nên mi có bc thơ gi cho N sĩ hôm nay.

Pht pháp là pháp sn đ nơi tâm ca tt c chúng sanh, người xut gia ti gia đu có th th trì. Nhưng thân n có nhiu chướng duyên nếu lìa quê đi xa, rt d b người ln hiếp. Vy N sĩ ch nên  ti nhà gi gii nim Pht, quyết chí cu sanh Cc lc, không cn phi lìa quê hương xut gia làm Ni. Vic nghiên cu khp kinh giáo, đi các nơi tham hi bc minh sư là phn ca người nam, n gii bt chước theo không tin. Người n ch nên gng tu Tnh nghip, chuyên trì hiu Pht, nếu có th nhiếp c sáu căn, ni luôn tnh nim, t nhiên hin đi thân chng Tam mui, khi lâm chung lo gì không chiếm phm cao? Dù chưa chng Tam mui, cũng được d vào hi hi, gn gũi đc A Di Đà, ri ln ltr v tánh bn chân, t nhiên thông sut vô biên giáo hi, như tm gương ln soi rõ muôn hình. Chng y mc ý ci thuyn đi nguyn, không ri An dưỡng, hin thân  cõi Ta bà, cùng vô s phương tin đ thoát loài hu tình, khiến cho đu đến Liên bang chng Vô sanh nhn. y mi khi ph vi chí quyết lit tu trì ngày hôm nay, mi đáng gi là hoa sen sanh trong la, người n mà trượng phu đó!

Tu Tnh nghip, điu căn bn là phi quyết lòng cu sanh Tây phương. Cho nên pháp môn Tnh đ ly Tín, Nguyn, Hnh làm tông ch. Tín là phi tin cõi Ta bà có vô lượng ni kh, cõi Cc lc s an vui không cùng! Ni kh  Ta bà đước có tám th: sanh, già, bnh, chết, thương xa lìa, oán gp g, cu không toi ý, và năm m ly lng. (Năm m ly lng là chúng sanh đi vi sc, th, tưởng, hành, thc, khi hoc gây nghip như la cháy hng). S vui  Cc lc, nói v thân thì hóa sanh trong hoa sen, tuyt không già, bnh, chết, thun là người nam; cho đến danh t ác đo hãy còn chng nghe, hung chi có tht? Nếu v cnh thì vàng ròng làm đt, by báu làm ao, hàng cây cao ngt tri, lu các gia chng không, và s ăn mc th dng, khi tưởng đến đu được hóa hin va ý, không phi như  cõi này do sc người to tác mà thành.  Cc lc, Pht A Di Đà tướng đp vô biên, mt khi trông thy t dung, lin chng Pháp Nhn, đc Quán Âm Thế Chí cùng Thanh Tnh Hi Hi phóng ánh sáng trong sch, đng nói pháp mu. Thế nên, tuy là hàng phàm phu dy đy nghip lc, nếu phát lòng tín nguyn tha thiết, s được nh Pht nhiếp th. Khi đã vãng sanh v cõi kia, thì nghip ác phin não đu tiêu tan, trí hu công đc đu tròn đ. Tin được như thế mi gi là lòng tin chân tht. Như mun được biết rõ hơn, nên xem k kinh: A Di Đà, Vô Lượng Th và Quán Vô Lượng Th. Nhng kinh này chuyên nói v duyên khi s lý ca Tông Tnh đ, cũng gi là Tnh đ Tam Kinh. Ngoài ra các Kinh Đi tha phn nhiu đu có nói v Tnh đ. Như Kinh Hoa Nghiêm là khi đc Như Lai mi thành Chánh giác, vì các bc Pháp Thân Đi sĩ  bn mươi mt v, xng tánh nói ngay pháp Nht tha mu nhim. Sau rt, lúc Ngài Thin Tài đi tham hi khp các phương tri thc, ch chng bng chư Pht, Ph Hin B tát li vì nói mười đi nguyn vương, khuyên Ngài Thin Tài và hi chúng trong cõi Hoa Tng hi hướng cu sanh v thế gii Cc lc, đ mau tròn đy qu Pht. Trong Quán Kinh, chương H Phm H Sanh có nói: “Hng người phm ti Ngũ nghch, Thp ác, làm đ các vic không lành, khi sp chết tướng Đa ngc hin, được bc Thin tri thc khuyên bo nim Pht, k y vâng li nim chưa đy mười câu, lin thy Hóa Pht đưa tay tiếp dn vãng sanh.” Kinh Đi Tp dy: “Đi Mt pháp c người tu hành nhưng ít có k ng đo, ch nương theo môn Nim Pht mi được thoát luân hi.” Thế thì biết pháp nim Pht là con đường đng tu ca thượng Thánh h phàm. Vi pháp này, k ngu người trí đu có th làm theo, cách hành trì d mà thành công cao, dùng sc ít song hiu qu mau l. Bi môn Tnh đ chuyên nh Pht lc nên s li ích rt ln, vượt hơn tt c giáo pháp thông thường. Người xưa nói: “Tu các môn khác như con kiến bò lên núi cao, nim Pht vãng sanh như thuyn bum xuôi theo gió nước.” Li này có th gi là s so sánh rt xác đáng, rõ ràng.

Nếu mun nghiên cu nên xem b Yếu Gii Kinh A Di Đà ca Ngu Ích Đi sư tr thut. B này din t s lý đến ch cc đim, là li chú gii rt hay rt xác, đng vào bc nht t khi Pht nói kinh y đến gi, dù cho C Pht tái hin ra đi chú gii li cũng không hơn được. Vy N sĩ ch nên khinh thường, phi trit đ tin theo. V Kinh Vô Lượng Th, có li chú s ca Hu Vin Pháp sư đi Tùy, văn nghĩa rt rõ ràng. Kinh Quán Vô Lượng Th thì có b T Thip S ca Thin Đo Hòa thượng. Ngài Thin Đo mun li khp ba căn nên phn nhiu phát huy v s tướng. Sau chương Thượng phm Thượng Sanh, Ngài ch rõ s hơn kém ca hai li tu chuyên và tp, li bo phi sanh lòng tin bn chc, dù đc Thích Ca hoc chư Pht hin thân dy b môn Tnh đ tu theo các pháp khác, cũng không di đi chí nguyn. Li trên đây có th gi là cây kim ch nam ca người tu Tnh nghip. Đến như b Quán Kinh S Diu Tông Sao ca bên Thiên Thai Tông thì nghĩa quá viên dung mu nhim, người căn cơ trung, h khó được li ích, vn không bng b T Thip S li khp ba căn. Đã biết nhng nghĩa lý trên đây, cn y theo đó tin chc. Ch chính mình hiu đến thì tin đã đành, dù ch mình chưa hiu đến cũng vn tin. Phi biết pháp môn Tnh đ do nơi kim khu ca Pht nói ra, ch nên đem s suy lường không thu đáo ca tình phàm mà sanh lòng nghi hoc. Tin như thế mi gi là chân tín.

Đã tin chc ri, cn phi phát nguyn lìa cõi Ta bà như tù nhân mong ra khi ngc, nguyn sanh v Cc lc như vin khách nh quê xưa. Nếu chưa được sanh Tnh đ, dù có ai đem ngôi báu ca Thiên Vương dâng cho, cũng xem là nhân duyên đa lc, không móng mt niưa thích. Cho đến vic: đi sau đi thân n ra nam, tui tr xut gia, nghe mt hiu ngàn, được đi tng trì, cũng nên xem đó là đường li tu hành quanh qun, không sanh lòng mong ước, ch mun khi lâm chung được Pht tiếp dn v Tây phương mà thôi. Khi được vãng sanh, tt s thoát vòng sanh t, vượt cnh phàm vào cõi Thánh,  hàng Bt thi, chng qu Vô sanh. Chng y nhìn li mi biết ngôi vua  cõi Tri, Người, cho đến vic tái sanh xut gia làm tăng, là s nhc nhn nhiu kiếp, không biết chng nào mi được gii thoát. Ri so sánh li, thy nhng điy đi vi phm sen ca mình ngày nay, không khác nào la đóm cùng vng nht rng và con kiếbò lên núi Thái Sơn! Cho nên, người tu Tnh Đ Quyết không nên cu phước báo  cõi Tri, Người, và đi sau tr li xut gia làm tăng. Nếcó my may nhng niy, tc không phi tin sâu nguyn thiết, ngăn cách vi li t th ca đc A Di Đà, không được cng và nh Pht tiếp dn. Tht đáng thương lm! Đáng tiếc lm! N đem hnh mu không th nghĩ bàn, cu ly qu vui hu lu đ khi hưởng hết phước ri li b sa đa, theo dòng hoc nghip, chu s kh vô cùng ư? Trong v đ h nếu đ thuc đc, cht ngon ngy s giết người; tu Tnh đ mà không khéo dng tâm thì s tai hi cũng y như thế! Vy phi dt tuyt nhng nim li lm như trên, mi có th hoàn toàn th dng s li ích ca môn Tnh đ.

Đã tin sâu nguyn thiết, li cn phi chp trì sáu ch hng danh “Nam Mô A Di Đà Pht.” Không lun lúc đi, đng, ngi, nm, nói, nín, đng, tnh, mc áo, ăn cơm, cho đến khi đi tiu tin, đu gi chc sáu ch y nơi tâm (hoc trì bn ch cũng được). Phi gng làm sao cho mi nim đu hin tin, toàn Pht là tâm, tâm Pht như mt, nim cho đến ch chí cc quên c trn tình. Chng y lòng không, Pht hin, đương đi có th thân chng Nim Pht Tam mui, đến khi lâm chung sanh v Thượng phm. Tu trì như thế có th gi là dùng hết công năng vy. Đến như trong công vic hng ngày, có my may điu lành và các công đc tng kinh l Pht, đu đem hi hướng vãng sanh. Như thế thì tt c hành môn đu là tr hnh ca Tnh đ, như gom cát bi thành đt, hp sông ngòi thành bin, s sâu rng s vô cùng. Li cn phi phát lòng B đ, th đ chúng sanh, đem công tu hi hướng bn ân ba cõi và loài hu tình trong pháp gii. Đó là rng kết pháp duyên vi tt c chúng sanh, như la thêm du, m được mưa, làm cho thng hnh Đi tha ca mình sm mau thành tu. Nếu không biết nghĩa này thì thành ra kiến chp t li ca phàm phu, Nh tha, tuy tu hnh mu, cm qu rt thp kém. Dù rng trong s nim Pht, tt c thi, tt c ch đu không ngi, nhưng cũng phi thường gi lòng kính s, li phi trng tượng Pht như Pht sng, xem Kinh Pht li T như Pht, T đi trước mình thuyết pháp, không dám có chút khinh mn nghi ng. Lúc bình thường nim Pht hoc thm hay ra tiếng tùy ý, song nhng khi nm ng, đi tiu tin, tm gi, ra chân và đi ngang qua ch không nghiêm sch, đu phi nim thm, nếu ra tiếng tc là không cung kính. Nên biết, nim thm công đc cũng đng như nim ra tiếng. Tôi thường nói: mun được s li ích thiếtht trong Pht pháp, phi tìm nơi lòng cung kính, có mt phn cung kính thì tiêu mt phn ti nghip, thêm mt phn phước hu; có mười phn cung kính, tiêu mười phn ti nghip, thêm mười phn phước hu. Nếu không cung kính, tuy cũng gieo vin nhân, nhưng ác qu ca ti khinh ln tht chng th tưởng nghĩ! Người ti gia đi nay trong khi đc Kinh Pht đu phm bnh này, nên vi k hu duyên, tôi thường nhc đi nhc li mãi.

Nim Pht cn phi nhiếp tâm nim do tâm khi, tiếng t ming ra, mi câu mi ch đu rành r, rõ ràng. Li phi lng tai nghe k, in câu nim Pht vào tâm. Nếu nhiếp nhĩ căn thì các căn kia không còn buông chy theo bên ngoài, mi có th mau được nht tâm bt lon. Đi Thế Chí B tát bo: “Nhiếp c sáu căn, tnh nim ni luôn, được Tam Ma Đa, đây là bc nht”, chính là ý này. Đc Văn Thù nói: “Nghe vào, nghe tánh mình. Tánh thành đo Vô thượng”, cũng đng mt nghĩa trên đây. Rt không nên cho phép Trì Danh là cn ct, ri tu theo các phép: Quán Tưởng, Quán Tượng, Tht Tướng. Trong bn phép nim Pht ch có môn Trì Danh là rt hp cơ, nếu gi đến mt lòng không lon, thì lý mu tht tướng toàn th l bày, cnh l Tây phương hin ra rõ rt. Cho nên tc nơi Trì Danh mà chng được tht tướng, không cn quán tưởng cũng thy Tây phương; mt pháp Trì Danh chính là ca mu vào đo, con đường thng tt đến qu B đ. Người đi nay phn nhiu không hiu v giáo lý ca phép Quán, nếu tu theo Quán Tưởng, Tht Tướng, hoc có khi b ma da vào. Vy tt hơn là nên la hnh d tu, cũng cm được qu nhim mu, đng hc khéo thành vng, cu siêu tr li b đa, thì đáng tiếc lm!

Quyn Tnh Đ Thp Yếu do Ngu Ích Đi sư dùng mt Kim Cang, la ly nhng đon hp lý hp cơ trong các kinh sách Tnh đ mà làm thành, đáng lit vào bc nht. Tnh Đ Thánh Hin Lc ghi chép nhng hnh nguyn trong nhân, công đc trên qu ca Pht A Di Đà cùng các v B tát: Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Ph Hin, Mã Minh, Long Th. Kế đó li ghi vic t tu dy người ca các bc T sư, Thin tri thc, như Ngài Hu Vin, Trí Gi, cùng nhng s tích vãng sanh ca bn chúng và hàng vua, quan, sĩ, th, ph n, người ti ác, loi Súc sanh. Trong y có ph vào nhng ngôn lun thiết yếu, khiến cho người xem có ch nương ta, không còn nghi ng. Đc quyn này, có th ly người xưa làm Thy, mà gng tu Tnh nghip, so vi s đi tham hi các bc tri thc, li càng thân thiết hơn. B Long Thơ Tnh Đ Văn phân loi v các môn tu trì, cn li khuyên t, khiến cho người dt nghi sanh lòng tin, là mt pho sách rt hay đ dn dt k sơ cơ. Ba th trên đây và Vô Lượng Th Kinh S, Quán Kinh T Thip S, cng li là năm, trước kia tôi đã nói vi Thy Phước Nghiêm thnh giùm gi đến, không biết N sĩ có được chăng? Nếu không, xin hi âm, tôi s do nhà bưu cc gi tng. Được my th sách y, có th biết đ các nghĩa tông Tnh đ, dù không xem khp các kinh cũng chng hi gì! Nếu không rõ pháp môn Tnh đ, gi s có hiu sâu ba Tng Kinh, ng sut t tâm chăng na, mun thoát vòng sanh t, còn tri qua không biết bao nhiêu đi kiếp mi làm tròn bn nguyn. Nim Pht như thuc A Dà Đà tr hết muôn bnh, pháp môn kỳ diu như thế mà không biết, há chng đau tiếc lư? Biết mà không tu, và tu mà không chuyên tâm gng chí, li càng đáng đau tiếc hơn na!

Người n ra khi nhà có nhiu chướng duyên, hung chi thêm s đ dng khó khăn, li càng bt tin. Nếu là người nam xut gia làm tăng, còn phi vào thin đường hc nghi tc cho biết quy c nhà chùa, ri đi du phương mi không tr ngi. Chng thế thì c mười phương tòng lâm, không  ch nào được. Vic th gii đi vi n nhơn, như người gia tư đy đ có th t ch, cũng nên đi đến chùa xin th, bng không dư gi, hà tt phi c đnh như thế! Ch cn mt lòng tha thiết chí thành, đi trước bàn Pht sám hi by ngày, t th xin th gii. Sám hi đến ngày th by xong, quì trước Pht xướng rng: “Đ t là Phước Hin th th năm gii, làm mãn phƯu Bà Di. (Ưu Bà Di dch là Cn S N, mãn phn là gi trn năm gii). Th sut đi không giết hi, sut đi không trm cp, sut đi không dâm dc, (nếu có gia đình thì nói không tà dâm), sut đi không nói di, sut đi không ung rượu.” Nói như thế ba ln, tc là đc gii. Điu cn yếu là phi hết lòng th trì, thì công đc sánh vi s cu chư tăng truyn gii cho vn không hơn kém. Ch nên nghi rng th gii như thế không đúng pháp, phi biết cách thc trên đây là do theo Thánh hun ca Như Lai trong Kinh Phm Võng.  Ph Đà, mùa thu không có truyn gii, ch truyn vào khong thượng tun tháng giêng đến mười chín tháng hai thôi. Nhưng rt mong N sĩ  yên nơi nhà tu Tnh nghip đng bôn ba sương tuyết đến đây làm chi. Nếu còn chp trước không đi ý, y là chng biết điu hay d, đã hi s thanh tu ca chính mình, li ph li thành tht ca lão tăng này na. Tôi mun cho N sĩ hin đi thành tu đo nghip, quyết không có ý chi làm ngăn tr pháp duyên, xin nghĩ k s t rõ. Đến như vic không được xut gia ý mun quyên sinh, xét ra chí nguyn tuy có mãnh lit, nhưng tâm niy tht là si cung. Gia thi Mt pháp này, k chơn tu rt ít, my ai là bc hnh gii cao siêu kham làm Thy dn dt cho người? N sĩ ch biết xut gia làm ni là gii thoát, nhưng chưa rõ nhiu ni chướng ngi ca ni tăng. Và, cũng đng tưởng rng quyên sinh là rnh n đi đâu? Mt khi chết ri, thn thc s b nghip lc dn dt đi đu thai, còn e do tâm nim phn uy, b sa đa vào loài bàng sanh, mun tr li làm thân người n cũng là vic cu may khó được. Dù cho li được làm thân người n, hoc thân nam, hay là thân vua chúa cõi người, cõi tri, đâu có bo đm còn gp Pht pháp mà tu hành? Và đâu chc rng  trong Pht pháp li hân hnh gp môn Tnh đ là mt pháp hin đi vượt thoát vòng sanh t? Dù có gp được na, cũng đâu bng bây gi c nhn ni yên sng mà tu trì, đi đến khi hết báo thân lin sanh v cõi Cc lc? Tôi đã cn li khuyên nhc, th hi t trước đến nay có ai vì N sĩ ch rõ s li hy chăng? Nếu không y như li lão tăng, tc là ph ơn dy bo, s kh v sau s còn gp bi hơn ngày hôm nay na!

“Đường đo tuy bng song khó dt. Phi do nơi k quyết lòng đi.” Vy nghe cùng không, N sĩ t nên suy xét. Xin nh đem nhng li trên đây chuyn li cho trinh n Phước Liên được biết.

 

11/ Thơ gi Đế Nhàn Pháp sư

 

 

n Quang t lúc mi xut gia lin tin pháp môn Tnh đ, nhưng vì nghip chướng che lp, trong hai mươi năm nay, ngày lung qua ngày. Nghĩ nhng thn khi t thy ming tuy nim Pht, song lòng không nhim đo! Gn đây, nh ơn Pháp sư khuyên nhc, xin th không dám đ ph tm lòng chiếu c, xót thương. Ch kh ni hôn trm, tán lon thay nhau đánh đ, đo lc không thêm đượchút nào, li cũ vn còn nguyên du cũ. Cho nên mi ngày tôi xem hơn mười t tnh đin, mong nương theo ngôn hnh sáng sut ca người xưa đ phát lòng thng tn.

Pháp môn Bo Vương Tùy Tc, tôi th dùng thì thy vng nim không còn sôi ni như lúc trước, tưởng rng lâu ngày chc cũng có lúc được nhìn cnh mây tnh tri trong. Tôi tra trong Lc Bang Văn Loi và Thánh Hin Lc đu thy có chép đon này, bng cht hiu phép Thp Nim mượn hơi nhiếp tâm ca Ngài T Vân là căn c  nơi đây. Và, trong b Liên Tông Bo Giám cũng có nói đến na. Như thế đ thy người xưa liu biết cơ nghi đi Mt pháp, nếu phi phương pháp này chc khó ni gia công, nên đã d lp ra trước. Nhưng c nhơn ít ai đem môn Bo Vương Tùy Tc đ giáo hóa, vì thu trước căn tánh người còn sáng l, mt khi phát lòng qu quyết, t được nht tâm. Đi nay, người chướng nng căn đn như tôi, e đến chết cũng không được cnh gii không lon. Vì thế, tôi không dám giu s d riêng ca mình, mong thnh ý nơi bc cao minh; vy có nên thc hành cùng chăng, xin nh ch rõ? Tôi li nghĩ: phép này nhiếp c Ngũ Đình Tâm Quán, nếu có th theo hơi th mà nim, tc là gm đ hai môn: S Tc và Nim Pht. Nếu nhiếp tâm nim Pht thì lòng tham nhim ln ln dt tuyt, sân hn không còn ly lng, khi hôn trm tán lon đã lui, trí hu lin hin mà phá luôn c si mê na. Pháp môn nhiếp sáu căn ca đc Thế Chí, theo ngu ý thì nhng người nim Pht lơ là hin thi, dường như chng nên dùng, vì nếu không ln chui ghi s, h s tr thành biếng tr. Khác hơn thế, nhng ai quyết tâm nim Pht, nếu b phép này, nht đnh khó thành Tam mui.

Pháp sư nương bn nguyn li sanh, t mình tuy không dùng, nhưng cũng nên vì người thí nghim, đ dy k hu lai. Phép nhiếp sáu căn vi bc li cơ, trong mt hai tht, quyết s được không lon. Dù cho hng ngu kém như tôi, nếu c gia công hoc tám năm hay mười năm, tưởng may ra có th được nht tâm.

 

12/ Thơ Đáp Mt Cư Sĩ  Vĩnh Gia

 

 

Người nim Pht chng phi không th trì chú, nhưng cn nên phân ch, tr cho rõ ràng, t nhiên tr cũng v ch. Nếu lơ là xem đng như nhau thì ch cũng không thành ch na! Chú Chun Đ, Đi Bi đâu có hơn kém, nếu tâm chí thành, pháp pháp đu linh, tâm không chí thành, pháp pháp không linh. Mt câu nim Pht bao trùm đi tng giáo, đy đ tt c, vn không thiếu sót pháp nào. Bc thông tông thông giáo mi có th làm người chơn nim Pht, và hng ngu ti không hiu chi, ch biết thành tht vâng li, cũng có th làm người chơn nim Pht. Ngoài hai hng này, chơn hay không đu do nơi mình gng sc, t xét có thc hành đúng giáo pháp cùng chăng? Đến như tu Tnh đ, đã có ý quyết đnh không nghi, cn gì phi hi s hiu nghim ca người khác? Dù cho c thế gian đu không hiu nghim cũng chng sanh mt nim nghi ng vì li thành tht ca Pht, T có th đ làm bng c. Nếu c hi s hiu nghim ca người khác, tc là tâm còn do d, chưa tin chc li ca Pht, vic làm tt khó xong. Bc anh lit, quyết chng đến đi b li Pht theo li người. Nhng k không ch trương ch ly s hiu nghim bên ngoài làm tiên đo, tht là đáng thương xót!

“Tùy T Ý Tam mui” là đường li tu chung t phàm đến Thánh. Hàng sơ tâm B tát trong y nói, tuy gm nhiếp tt c phàm phu, song tht ra là ch cho bc sơ tr B tát  Viên giáo, đã phát ba tâm chng ba đc. Bc này do phát lý tâm ca chính nhân, chng đc pháp thân, phát hu tâm ca liu nhân, chng đc Bát nhã, phát thin tâm ca duyên nhân chng đc gii thoát, nên có th hin thân thp pháp gi trong mười phương quc đ, khng các cơ mà làm vic cu Pht đ sanh. Thế nên sơ tâm không phi ch riêng cho hng phàm phu mi phát tâm tu hành. Cư sĩ thy trong Kim Luân Chú nói v vic ng pháp Nh Không, chng lý Tht Tướng, lin vui mng khp khi mun đng ra nhn lãnh, tôi e cho không khi lc vào lưới ma. Vy xin ch rõ viy ra đây, đ cư sĩ hiu biết, tránh s sai lm. “Ng pháp Nh Không, chng lý Tht Tướng”, chính là thân phn ca hàng sơ tâm B tát đã nói trên. Pháp thc trong quyy ch dy, hng phàm phu có th y theo mà tu hành. Đến như v thân phn, dù cho bc Thanh văn đ đi thn thông cũng không đm đương ni, hung là phàm phu? Li, trong y my đon: “Không ch tr sanh tâm, không tr pháp b thí, ba luân th không, mt đo thanh tnh, đu phát minh rt rõ.” Tôi mun đem nhng nghĩa này làm thành bài tng cho người đc hiu được cương yếu, nhưng vì bn nhiu vic không được rnh, đ hn li năm sau. Đến như ch nói: “Quán thân tc không quán chi c, ch quán vô duyên”, vô duyên chính là nghĩa “không, không có tánh chi” trong Tùy T Ý Tam mui đã nói. Và, vì “không có chi” nên không duyên vào đâu được. Nếu chng do nơi ci gc này, chém mt dao cho đt đon, thì làm sao dt được mi phan duyên?

My li trên đây tuy gin lược, song ý nghĩa rt rng sâu. Xin thut li cho T Quân được rõ.

 

13/ Thơ Đáp Mt Cư Sĩ

(Ph Nguyên Thơ)

 

 

(B nhân rt tin pháp môn Tnh đ, đã quyết đnh phng hành, nhưng vi hai ch “Nguyn, Hnh” còn phi nh dy bo. “Nguyn cùng Hnh nên đi riêng hay chung?” Vn đ này lâu nay tôi vn hng thc mc. Xin chia hai phương din đ lun:

1. Nếu Nguyn và Hnh riêng, thì trước khi nim Pht phi phát nguyn cu sanh, như đc bài văn trong nghi thc Thp Nim ca Ngài T Vân chng hn, ri sau mi nim. Và, khi nim Pht phi làm sao cho ngoài tâm không Pht, ngoài Pht không tâm, tâm và ming như mt, c như thế mà nim mãi, tuyt chng có ý nguyn cu sanh. Y theo phương pháp này mà nim thì sanh v Thượng phm. Đây là căn c theo li ca Ngài Trit Ng Thin sư.

2. Nếu Nguyn và Hnh chung, là trong khi nim kiêm c nguyn, thì tiếng cùng tâm phi tha thiết như tr thơ té xung nước cu cu vi m. Đây là li ca Ngài Ngc Phong Thin sư. Li, Kiên Mt Đi sư cũng bo: “Sáu ch hng danh, trong mi nim đ tâm ưa chán”, cùng vi thuyết ca Ngài Ngc Phong vn đng.

So hai phương din trên đây, thuyết th nht dường như thiếu s khn thiết trong khi nim Pht, Ngu Ích Đi sư đã bo: “Cu sanh Tnh đ toàn nh nơi tín nguyn, thiếu hai điu kin này, dù nim đến gió thi không vào, mưa rơi chng lt, chc như tường đng vách st, cũng không được vãng sanh.” Thế thì nếu theo thuyết th nht, e khi nim đến mt lòng không lon, cũng chưa đng vng. Như theo thuyết th hai thì trong khi nim Pht nơi tâm còn gi ch nguyn, s rng dù lòng không lon, cũng khó được thun nht. Gn đây, Sư Vi Vi  Hàng Châu cũng t s lo ngi v vic “Nguyn Hnh chng th kiêm chng th không kiêm” như tôi.

Vi hai thuyết trên, k mt hc ti tăm này chưa biết gii quyết thế nào? Tưởng rng bc cao hin chc có li lun xác đáng, xin vì người sau ch rõ bến b).

Pháp môn Tnh đ ly Tín, Nguyn, Hnh làm tông, như cái đnh có ba chân, thiếu mt tt không đng vng. Các h siêng tu Tnh nghip, vi ch Tín đã quyết đnh không còn nghi, đến như Nguyn, Hnh, thì t h có s chp kia đây đi đãi, nên không th sut thông dung hi. Vì thế, nơi pháp viên diu không ngi bng t sanh nhiu điu chướng ngi, khiến cho ánh trăng sáng muôn vng ca Ngài Trit Ng, Kiên Mt, Ngu Ích, ch nhân mt si tơ trước mt mà thành ra cách phân. Tht cũng đáng tiếc lm!

Người chơn nim Pht, trong khi nim vn đy đ ba món Tín, Nguyn, Hnh. Như con nh m, lúc cm thương kêu gi, quyết chng khi nào có tâm nim không tin và không nguyn thy bóng T Thân. Thế thì còn hi chi “Nguyn, Hnh chung hay riêng”, còn nói chi “có Nguyn tâm khó thun nht”  “chng th kiêm chng th không kiêm.” y là không vic mà thêm vic đó! Xem li các h và lun điu ca v Tăng kia dường như c hai đu chưa biết thiết tht hành trì trong câu nim Pht, không khác nào người chưa ct bước đi, đã vi nghĩ ngi đến cnh tượng lúc v nhà. Thế nên, vi nhng pháp ng đi tr s phân bit ca c nhân, tr li càng thêm phân bit! Th hi: “Ngoài tâm không Pht, ngoài Pht không tâm”, chng khn thiết mà được như thế ư? Không tín nguyn mà được như thế ư? Li ca hai Ngài Trit Ng, Kiên Mt tuy có khác, song tht ra ý nghĩa vn giúp đ thành tu ln nhau, các h li nhn làm“Nguyn, Hnh chung, riêng” có th gi là thiếu con mt trch pháp đó! Đến như li ca Ngu Ích Đi sư chính là món pháp dượđ đi tr hng người nương ta Thin tông, nim đc Di Đà t tánh, cnh Tnh đ duy tâm, không tu đúng theo tông ch ca môn Nim Pht, ch cu được mt lòng không lon làm mc cui cùng. y là vic ngoài tông Tnh đ, sao các h li dn ra so sánh vi đim tín nguyn đy đ ca s chơn tu, khiến cho đường li ln ln như thế?

Trên đây là ước v lý mà nói chung, nếước v s, thì phát nguyn nên  vào khong sm, ti, khi nim Pht xong. Lúc y, hoc dùng bài văn “Tiu Tnh đ, như có đ thi gi, nên đc bài Tnh đ Văn ca Ngài Liên Trì. Bài này li ý đu đy đ, đng đu các bài văn Tnh đ xưa nay. Nên biết, đc nguyn văn là y theo văn mà tht tâm phát nguyn, không phi đc qua mt ln là phát nguyn đâu! Tr lúc phát nguyn sm và ti, trong tc các thi khác ch hết lòng khn thiết nim Pht mà thôi.

 

14/ Thơ Đáp Cư Sĩ Trn Hu Siêu

 

 

Được thơ, biết cư sĩ lòng m đo thâm thiết, tôi rt vui mng! Nhưng vì duyên s quá nhiu, thêm phi gp gio đnh li b An Sĩ Toàn Thơ, nên s phúc đáp có phn chm tr.

Tâm tham, gin, mê người người đu có, song nếu biết đó là bnh thì thế lc ca nó cũng không đến đi ly lng. Ví như k trm vào nhà, nếu ch nhân nhn lm là người nhà, tt nhiên tài vt đu b nó ly hết. Như gia ch biết đó là k trm, đui ngay lin tc khc, thì trong nhà yên n, ca ci mi được bo toàn. C đc nói: “Không s nim khi sm, ch lo giác ng chm.” Tham, gin, mê dù có ni lên, giác ng được, tâm y lin tiêu dit. Trái li, nếu an nhiên xem nó như người trong nhà, thì có khác nào nhn gic làm con, bo sao tin ca không b hao mt?

Nim Pht không th khn thiết, vì chng biết cõi Ta bà kh ly, min Cc lc an vui. Phi nghĩ rng:“Thân người khó được, trung quc khó sanh, Pháp Pht khó nghe, môn Tnh đ li càng khó gp. Hin thi, nếu ta không chí tâm nim Pht, mt khi vô thường đến, nht đnh s theo nghip ác nng n trong đi này hoc kiếp trước mà đa vào ba đường d, chu s kh lâu dài, biết chng nào mi được thoát ly?” Thường nghĩ như thế, s t tnh ngtha thiết. Và phi tưởng đến s kh nơi Đa ngc mà phát tâm B đ. B đ tâm là lòng li mình li người. Khi phát tâm này, như đ máy được gn đin, có năng lc rt mnh m mau l, s tiêu nghip chướng thêm phước hu, nhng căn lành công đc bình thường không th sánh kp.

B cnh xoay chuyn là do công tu hãy còn cn ct, nên khi trong lòng có s gin mng, nét xu, đp lin hin ra nơi mt. Nếu chánh nim nhiu, t nhiên tt c phin não đu gim nh. Cho nên, người chơn tu tuy  cnh trn lao, hng tinh chuyên rèn luyn, khiến cho nghip tp ln ln tiêu dit. y mi là công phu thiết tht, và như thế tâm s được t ch, thoát khi s chi phi do hoàn cnh bên ngoài.

Người ti gia không theo chúng, s tng nim đu tùy mình, hoc ngi, đng, quì, đi nhiu quanh đu được, không nên chp đnh mt li nào. Nếu chp đnh, người s d nhc, tâm khó tương ưng. Nếu châm chước theo sc khe, công phu ca mình, la điu thích hp mà làm, mi có li ích. C theo l thông thường, thì trước nên đi nhiu quanh, kế đó ngi, ri sau quì. Như đi nhiu và quì thy mi nhc, nên ngi nim, ngi lâu sanh hôn trm, thì đi nhiu quanh bàn Pht hoc đng nim, đi khi hôn trm tan mi tr li ngi. Khi nim nên coi theo đng h đnh thi, đng ln chui, vì ln chui khó dưỡng tâm.

 

15/ Thơ Đáp Ly n Tu

 

 

Va ri Hi Thi Đo Nhơ Gia Hưng có chuyn đến cho tôi phong thơ ca các h. Xem xong, biết các h t lâu đã gia công tu Tiên, ch s đc rt thâm, nay li mun hi môn Tnh đ là pháp cu cánh trong đo Pht. y có th gi là người t kiếp trước đã trng sâu căn lành đi vi Pht pháp, nên không chp theo s câu kiến ca thn Hà Bá, mà biết nghĩ tìm trong bin giáo, bến gii thoát hoàn toàn. Nhưng các h đã quen biết vi Hi Thi Đo Nhơn, sao không hi người, li b ch cao minh tìm nơi thp kém, e rng có ph vi s vng chăng? Hi Thi vn là bc kiêm thông tông giáo, gm tu Thin Tnh, chính là chiếc thuyn đi nguyn trong bin sanh t đó. Vì người quá khiêm tn, nên ly ch thi t đt tên, tht ra nếu trong bisanh t mà gp được cái t thi y, quyết s mau lên b giác, yên n tr li quê nhà. Như thế chng hơn tìm hn Quang là k dung Tăng, đi vi pháp môn kém phn hiu biết hay sao? Nhưng các h đã tưởng lm hi đến, tôi cũng xin tùy ch thin kiến đáp li, hoc may có th vì người gii chút nghi ng chăng?

Thiết nghĩ trong th đo Pht, Tiên, vn đng ngun, nhưng v chi phái tht ra cách nhau xa khác. Đo Pht dy người trước tiên tu phép quán T Nim X, quán thân không sch, th là kh, tâm vô thường và pháp vô ngã. Khi được biết thân, th, tâm, pháp là không sch, kh, vô thường, vô ngã, đu gi di như mng huyn, thì tánh chơn như s t hin bày. Đo Tiên ước v lúc chánh truyn ban đu, cũng không chuyên ch nơi s luyn đơn vn khí đ cu trường sanh, nhưng người sau tu hành li lm cho đó là tông ch chơn chánh. Đo Pht bao trùm tt c pháp, chng nhng đi vi vn đ thân tâm tánh mng, phát huy rõ ràng, mà các vic nh ca thế đế như hiếu, đ, trung, tín, l, nghĩa, liêm, s, cũng không b sót. Duy v vic luyn đơn vn khí, trong Pht pháp tuyt không nói đến mt ch, li còn răn cm là khác na. Vì l bên Tiên thì khiến cho người gi gìn thân tâm làm chân tht, bên Pht li ch rõ thân tâm vn gi di, theo duyên sanh dit, không phi là bn hu chân tâm. Phép luyn đơn chng phi không b ích, song ch có th làm cho người sng lâu, nhn đến thành Tiên sanh lên tri, nếu nói v s gii thoát luân hi thì vn còn là vic mng. Các h đã biết Tiên có s kiếp, Pht th không cùng, thì trong lúc tui cao này, phi chuyên tâm gng sc nơi pháp môn Tnh đ. Vic tham hc thin, giáo, nên gin lược qua, bi các pháp y rng ln sâu xa không d gì nghiên cu, dù tìm đến ch cùng cc, cũng phi tr v môn Nim Pht mi có th trong hin đi gii quyết được s sanh t. Phàm nhng kinh lun v Tnh đ, các h phi gp gp tìm xem, y theo đó thc hành, tin chc li ca Pht, T, không nên vì ch mình chưa hiu đến vi đem lòng nghi. Nếu có th đy đ c Tín, Nguyn Hnh, t nhiên s được nh sc ca Pht tiếp dn v Tây phương. Mt khi đã vãng sanh thì gn đc Di Đà, bn cùng hi chúng, ln ln chng qu Vô sanh, lên ngôi B X. Chng y nhìn li vic thành Tiên làm k tùy thuc cho Thiên Đế, sánh vi đa v hin ti, tht cách nhau như vc thm tri xa!

Quyn Mng Đông Ng Lc và các thuyết ca Bành Thiu Thăng mà các h nói, chc là s trm văn sa đi ca nhà luyn đơn, không phi chính tht trong nguyên thơ. Bi nhà luyn đơn cũng có k cho ngi vn khí là tham thin, nên mi nói “nim Pht cùng tham thiđng, ch hơi khác vi đo pháp.”Câu “ch hơi khác vi đo pháp”, chính là bên đo gia thêm vào. Tr câu này ra, toàn văn tuy nghĩa lý không quá sai lm, nhưng vn lng cng mơ h. Trong Mng Đông Ng Lc tuyt không có văn này, y là do nhà luyn đơn trm ly văn nghĩa biên chép ra, s tht chính h cũng không hiu na. Nhưng nay chng cn bin rõ viy làm chi, xin tìm xem quyn Mng Đông Ng Lc s t biết. Đến như ch h dn nhng li ca Bành Nh Lâm cư sĩ cũng đng vi vic trên đây, song s sai lm li càng nhiu hơn. Đon nói: “Bn ch A Di Đà Pht d nim, ch cn mi nim ni nhau mt lòng không lon, mi có th nht khí tun hoàn. Chng y tinh khí thn gom li mt ch, lâu ngày thành Xá Li t, lâu na kết làm B đ châu mà thành Pht.” Trên đây là đem phép nim Pht làm phép luyn đơn. Nh Lâm cư sĩ quyết không nói nhng ly. Đó là do hng chánh nhãn chưa m, nên ly chánh làm tà. My quyn Hu Mng Kinh, Tiên Pht Hip Tông ca h viết ra, s sai lm li càng quá lm. Hng người tà ngdn li ca người, ci đu sa đuôi đ chng minh cho lý thuyết mình. Ti trng khinh mit chánh lý, vu khng bc tin hin, mê hoc người đi ca h tht không bút mc nào t ra cho xiết! Nhng k đó ch cu hư danh trong mt thi, đâu dè v sau phi chu nhiu s khn kh, nên đc Như Lai gi là hng người đáng xót thương!

Đến như ch lun v phép “hi quang phn chiếu”, tuy không đến đi tr ngi, song câu “hai mt chăm nhìn đu ngón tay” chc có l dn lm câu “hai mt chăm nhìn nơi chót mũi.” Hoc khi đó là cách thc ca Nh Lâm cư sĩ lp ra, nhưng chp tay lâu không khi mi nhc, đâu bng quán ánh sáng trng nơi chót mũi được t ti an vui hơn? Bi người mi tp đnh, nim khó quy nht, nếu thường quán nơi chót mũi thì tâm không còn chy theo cnh bên ngoài. Đây là phép quán thin cn ca k sơ cơ vy. Quyn Mng Đông Ng Lc do cư sĩ Tin Y Am trích nhng đon chuyên ch Tnh đ trong b Mng Đông Di Tp in ra, cho lưu thông  phương nam, đ giúp s đòi hi ca nhng người t lâu mong mun b y mà không được gp. Toàn t Bc Kinh mi đ, phương nam duy có quyn lược bn ca Tin Y Am sao ra mà thôi. Quyn Ng Ly li l tinh diu, là mt tác phm đng vào bc nht t Ngài Ngu Ích và Tĩnh Am v sau. Vi quyn này, nếu các h có th đi đến cùng, tin chc không nghi, quyết s cm được sen vàng n trong ao báu, khi lâm chung thác cht nơi đó mà làm khách m cõi Tây phương. Quyn Di Đà Yếu Gii là cây kim ch nam ca người tu Tnh nghip, kinh này  phn đu b Tnh Đ Thp Yếu. Tnh Đ Thp Yếu là thành phn ca nhng giáo pháp rt hp lý hp cơ do Ngài Ngu Ích sưu tp trong các kinh sách Tnh đ viết ra, gm có mười loi nên gi là Thp Yếu. Đi sư đ quyn Di Đà Yếu Gi trước là t ý tôn trng kinh.

Xá Li, vn tiếng Phn, dch nghĩa: thân ct hoc linh ct, là kết tinh ca sc tu gii đnh hu, không phi do luyn khí thn mà thành. Đó cũng là biu tướng ca người tu đến cnh tâm cùng Pht hip. Nhưng Xá Li chng phi ch do tht, xương, tóc biến thành trong lúc thiêu thân, mà s xut hica nó có nhiu trường hp khác nhau. Như thu xưa có v cao Tăng đang khi tm gi bng được Xá Li. Tuyết Nham Khâm Thin sư lúc co đu, tóc Ngài biến thành mt xâu Xá Li. Có k chí tâm nim Pht, Xá Li t trong ming vt ra. Mt người th khc văn Long Thơ Tnh Đ, Xá Li hin trong bn cây. Có v tín n thêu Pht, thêu kinh, được Xá Li dưới mũi kim. Li có k đi xa v, ngm ngùi thương cm tế l trước tượng, nơi tượng bng hin ra Xá Li. Thin sư Trường Khánh Nhàn, khi tch ri thiêu hóa, nhm lúc tri ni gió ln, khói bay xa ba bn mươi dm, khói đến ch nào nơy đu có Xá Li, lượm gom li được hơn bn thch. Thế thì biết Xá Li do đo lc hóa hin, nhà luyn đơn không rõ, lm tưởng là luyn tinh khí thn kết thành. Bi h thy nhng danh tướng trong Pht pháp, không chu tìm hiu căn nguyên, vi đem ph hi mt cách sai lc vào s luyn đơn ca mình. Ch nghe nói chng qu B đ mi được thành Pht, chưa tng có vic luyn tinh khí thn, trước thành Xá Li t, sau kết làm B đ châu mà thành Pht bao gi! Tánh và mng ca nhà luyn đơn nói, đu là li tu chp trước trên thn thc, sc thân. H không hiu l y, tr li chê đo Pht ch tu tánh không biết tu mng, đâu dè vic làm ca h chính là ch phá tr bên Pht giáo. V vic này, các h tìm xem đon quán T Nim X trong Kinh Pht s t rõ.

B tát Quán Thế Âm t kiếp lâu xa v trước đã thành Pht, hiu là Chánh Pháp Minh. Vì lòng t bi sâu thiết, nên tuy  cõi Thường Tch, Ngài hóa hình nơi ba cõi: Thc Báo, Phương Tin, Đng Cư; tuy thường hu cn đc A Di Đà, mà vn khp hin thân Pht, B tát, Thanh văn, Duyên giác, cho đến thân lc đo trong mười phương pháp gii. Nhng vic li ích, Ngài đu làm, chúng sanh đáng dùng thân nào được đ, Ngài hin thân y mà nói pháp. Non Ph Đà chính là nơng tích ca B tát. Vì mun cho chúng sanh có ch bày t lòng thành, đc Quán Thế Âm mi th tch ti núi này, đâu phi B tát ch  Ph Đà mà không  nhng nơi khác ư? Như ch duy mt vng trăng trên tri mà bóng in khp ngàn muôn sông h, t bin c cho đến git sương, nhng nơi có nước trong là có trăng hin. Song nếu nước đc, bóng trăng s m khut. Tâm tánh ta ví như nước, nếu chúng sanh mt lòng chuyên nim đc Quán Thế Âm, B tát lin dùng đ cách thun, nghch, n, hin, khiến cho được li ích. Trái li, nếu không chuyên nht, tc là nước tâm l đc, tt nhiên khó mong nh Ngài cu đ. Nghĩa này rt thâm, xin xem đon “Ph Đà Sơn Chí”, trong b Văn Sao ca tôi s t rõ. B tát khi còn  trong nhân, do quán tánh nghe mà chng Viên thông, lúc  trên qu, do quán tiếng chúng sanh xưng danh hiu mà tìm đến cu đ, nên gi là Quán Thế Âm. Li, B tát đo pháp rng ln không ngn, tùy theo căn tánh ca tt c chúng sanh, nói đ pháp đ giáo hóa, không riêng lp mt môn nào, nên pháp môn ca Ngài gi là Ph Môn.

Trên đây là vic thin cn, vì các h chưa nghiên cu đến, nên không rõ. Tôi cũng tùy li hi mà đáp, tht ra đó không phi là môn Tnh đ, mt giáo pháp có th đem li cho các h s li ích hoàn toàn. Nhưng nếu nói rõ viy ra đây, li e lòng dòng thêm phí giy mc. Các h nên thnh Kinh Vô Lượng Th, Kinh Quán Vô Lượng Th, Tnh Đ Thp Yếu, Tnh Đ Thánh Hin Lc, Trit Ng Ng Lc mà xem, s lý tu chng thế nào, trong y có nói đ tt c.

 

16/ Thơ Đáp Cư Sĩ Phm C Nông

 

 

Pháp môn Tnh đ ly Tín, Nguyn, Hnh làm tông; Tín, Nguyn có sâu thiết, Hnh mi được tinh cn. Khi tai ha gp rút, siêng năng thành khn, lúc bình thường không vic, chm tr biếng lười, là s tu hành không chí quyết, và đó cũng là bnh chung ca phàm phu. Nhưng sng trong tình thế hin gi, ví như người nm yên trên đng ci to,  dưới la đã phát cháy tuy chưa đt đến thân, trong giây phút khói la s mt mù, không phương trn tránh. Nếu còn lơ láo qua ngày, không chuyên chí cu cu nơi câu nim Pht, s thy hicũng là cn ct lm!

Trong Pht pháp, tu v các môn khác, tt phi đến ch hnh khi gii tuyt mi tht có ích, chng riêng gì phép quán tưởng ca Tnh đ tông. Người tu thin ly mt câu thoi đu không nghĩa v làm bn mng ngươn thn, đ tt c tâm trí vào đó, thường thường tham cu chng k ngày tháng, đi đến khi tiêu hết tình kiến đi vi cnh trong ngoài, mi gi là đi trit đi ng. Đó chng phi là hnh khi gii tuyư? Đc Lc T bo: “ch xem Kinh Kim Cang cũng được t lòng thy tánh.” Đó chng phi là hnh khi gii tuyư? Ch khi đây phi hiu nghĩa là cc. Duy dùng sc cùng cc mi có th quên c thân tâm thế gii, lng sut mt màu. Nếu công chưa cùng cc, tuy quán nim, song vn còn có kia đây, toàn là vic ca tình phàm, toàn là s thy hiu phân bit, đâu được chân tht li ích? Cho nên người xưa khi tham thin, đu não như cây khô, do đó đo phong truyn rng khp nơi, đi sau còn ngưỡng m. S li ích y đu do  nơi mt ch cc mà thôi.

Người đi nay ưa nói suông, ít hay thc hành. Tu Tnh nghip phi gm c lý s, mà s li càng nên chuyên hơn. Ti sao thế? Vì người thông hiu lý, toàn s đu lý, trn ngày s trì tc là lý trì. K chưa rõ lý, khi nghe nói lý trì, cm thy nghĩy mu nhim, li hp vi ý biếng tr không thích phin nhc ca mình, lin chp lý b s. Đâu ng khi b s, lý cũng thành ra vic suông! Mong các h đem vic tu hành kiêm c s lý khuyên bo mi người, công đc s ln lm!

 

17/ Thơ Đáp Cư Sĩ Ngô Hi Chân

 

 

Môn nim Phước có bn pháp: Trì Danh, Quán Tưởng, Quán Tượng và Tht Tướng. Tu trung, ch có pháp Trì Danh nhiếp cơ rt rng, đã d tu li không khi các vic ma. Nếu mun quán tưởng, phi xem k Quán Kinh và hiu rõ nhng lý: tc tâm là Pht, tâm tnh Pht hin, các cnh đu duy tâm không nên chp trước... Đã rõ cnh không phi t bên ngoài đến, không sanh chp trước, thì cnh càng nhim mu, tâm càng thun nht. Nếu được như thế, s li ích ca quán tưởng đâu phi kém nh, tm thường?

Trái li, như cnh quán chng thun, l đo chưa thu sut, ch đem tâm vi gp mun thy cnh thì toàn th là vng, đã không được thông cm vi Pht, còn làm nhân cho vic ma. Bi do gp mun thy cnh, tâm càng thêm vng đng, khiến cho oan gia nhiu kiếp v trước nhân cơ hi đó hóa hin cnh gii đ làm cho hành gi mê lm. Lúc ban sơ dng tâm đã không chơn, đâu biết đó là cnh ma hin, nên vui mng khp khi, tình nim chng yên. Nhân đó, ma lin da vào làm cho mê tâm mt tánh. Chng y dù có Pht hin thân cũng không biết làm sao cu đ!

Vy cư sĩ nên lượng xét căn cơ mình, đng quá ham vic cao xa, thành ra mun li tr li mang hi. Thin Đo Hòa thượng nói: “Chúng sanh đi Mt pháp thn thc ri lon, đem tâm thô quán cnh nhim, quyết khó thành công.” Cho nên đc Pht thương xót, riêng m môn Trì Danh, vì s có k không khéo dng tâm, lc vào ma cnh. Tu theo phép Trì Danh rt d, ch gi mt nim ni nhau s được vãng sanh. Li s chí thành khn thiết cũng là phương pháp mu đ tr tâm vng và ma cnh.

Cư Sĩ nên xét li k, và đem hết tâm lc c gng tu hành!

 

18/ Thơ Đáp Cư Sĩ Lưu Trí Không

 

 

Va ri tiếp được thơ, biết ngươi bnh lâu mi lành mnh, lòng rt vui mng! Vic sng thác trng đi, cơn vô thường chóng mau, tai nghe nói đến tuy kinh s, song không thng thiết bng t thân đã tng tri nhng gi phút gn k cnh y. Vy ngươi nên phát lòng đi B đ, đem tình cnh mình khuyên trong thân quyến, bn bè, và người có duyên thì s li ích mi được rng.

Trong thơ nói: vì nim Pht mau gp nên mi lao hơi, đó là ti ngươi không khéo dng tâm. Nim Pht phi tùy sc mình, hoc nim thm hay ra tiếng, nim ln hay nh đu được, sao li c mt mt nim to tiếng, đ đến đi lao hơi thành bnh như thế? Bnh nng ca ngươi tuy bi nơi thương khí mà ra, song kỳ tht là do sc nghip t vô lượng kiếp đến nay phát hin. Bi ngươi nim Pht tinh tn, nên mi chuyn hu báo làm hin báo, đi qu nng thành qu nh, ch nên vì đó mà thi chí, nghi ng. Mt cơn bnh y, đã tiêu không biết bao nhiêu kiếp s nhng ti ác đáng l phi đa vào tam đ. Thế mi biết sc Pht khó nghĩ, ơn Pht khó đn, nên sanh lòng vui mng, h thn và càng thêm tin tưởng. T đây, phi siêng năng tu hành, đem môn Tnh đ khuyên người, khiến cho nhng k thân sơ đu được sanh v Cc lc. y mi không ph ơn đc Pht đã dùng cơn bnh thc tnh và chuyn tr ti chướng cho mình.

Non Ph Đà không cn đến làm chi, vì tin đi v tn kém nhiu.  nhà nim Pht công phu d tiến, li khi phí ca tin sc khe. Như thế có phi tin li hơn không?


19/ Thơ Đáp Cư Sĩ Châu Trí Mu (I - III)

 

 

I

 

 Được thơ, biết ngươi sanh lòng tin, mun quy y Pht pháp. Song, quy y Tam bo phi dt điu ác, làm vic lành, gng gi trn luân thường, phát lòng tín nguyn cu sanh v Tây phương. Li phi có lòng thương xót h sanh, đng giết hi, và trì lc trai hoc thp trai. Nếu chưa có th dùng thanh đm trn đi, cũng ch nên quá tham trong s ăn ung. Như thế mi không trái vi tâm t bi ca Pht. Ngươi tên Châu Mc, vy nay ta đt cho pháp danh là Trí Mu. Bi tâm tánh ví như cây, do la phin não thiêu đt nên cây y héo khô. Nếu có trí hu thì phin não không sanh, và cây tâm tánh t nhiên tt tươi thnh mu.

Mun th năm gii, trước nên xét li tâm mình, như có th gi được mà không phm, thì hi cư sĩ Hóa Tam v cách t th gii trước bàn Pht, y s ch li cho. Đã quy hướng Pht pháp, phi xem k Văn Sao ca ta, y theo thc hành, mi không b k dung thường làm mê hoc, khiến cho sanh tâm cu phước báo đi sau, hoc mong thành Tiên ri tu phép luyn đơn vn khí. Nếu có th lãnh hi ý nghĩa trong b Văn Sao, thì dù có trăm ngàn ngoi đo cũng không th lay chuyn được tâm ngươi. Ch cho rng b y không đ y c, phi biết nhng li trong đó đu do theo ý nghĩa Kinh Pht, hoc thành ngôn ca các bc T sư, Thin tri thc mà thut li, không phi t ta ba đt viết ra.

Nên nhn xét k, s li ích s được nhiu.

 

II

 

Ngươi ý chí rt kém, tâm li quá cao, tuy nói vâng li ta, tht ra toàn là y theo thiên kiến ca mình. Trong môn Tnh đ, lòng tin là ci gc. Tin được chc, k phm ti Ngũ nghch Thp ác đu có th vãng sanh; tin chưa vng, bc thông tông thông giáo còn hoc nghip cũng không duyên phn. Ngươi đã chng phi là bc thông tông giáo, có th nương sc mình tr hoc nghip đ khi sanh t, li không tin nơi sc Pht và công đc ca t tánh đu không th nghĩ bàn, thì làm sao đ gii thoát? Phi biết, nếu đ tín nguyn sâu thiết cu v Tây phương, không người nào chng được vãng sanh. Nim Pht là pháp tròn tt mau l đ thoát no luân hi; vi s hướng thượng ca môn này, ngươi còn chưa biết, li sanh lòng háo thng đi nghiên cu Khi Tín Lun! Lun Khi Tín tuy là cương yếu ca Pht pháp, nhưng khó đem s li ích cho người căn tánh kém và k sơ cơ. Dù cho nghiên cu Lun Khi Tín được thông sut không còn nghi, đến khi dng công li phi y theo phép nim Pht cu sanh mi là n tha. Nếu nói v lý gii, li còn có nhng nghĩa ca pháp tướng, thin, giáo rt nhim mu, ngươi làm sao thông sut cho hết được? Tâm ngươi cao như thế, mà không biết hn lượng s cao theo sc mình! Ngươi t cho rng“căn tánh hèn kém, khó mong sanh v Tây phương, ch cu không đa tam đ cũng vui lòng”, đâu biết nếu chng được vãng sanh, tương lai s b đa vào ác đo? Quan niy đã không hp vi giáo hun ca Pht, li trái li khuyên bo ca ta, mà gi: “vâng theo thc hành, mt lòng nim Pht”, là thế nào?

Nay ngươi chc nghip tm thường, tư cách chưa phi là bc cao thượng, s lp chí như thế, tht khiến cho người đáng than th và bun cười? Nên dt hn mi cao vng cu làm bc đi thông gia y đi, ri chuyên tâm nghiên cu các kinh sách Tnh đ và xem li my bc thơ ta gi cho Cao Thiu Lân, T N sĩ trong Văn Sao, y theo đó thc hành. Ch nên vì mình căn tánh hèn kém mà nâng cao s vãng sanh, đ viy ra vòng ngoài. Phi dùng câu nim Pht làm bn mng ngươn thn, tùy lúc đng tnh đu nm chc đng buông b. Li, nhng tâm nim, hành vi phi gi sao cho hp vi tông ch: dt các điu ác, làm nhng vic lành. Ngoài ra, nếu có sc dư, không ngi gì tng trì kinh chú, nên ly s chí thành làm ci gc, đng gp mun sut thông nghĩa lý. Nếu trước vi mun thu hiu, chng chuyên nơi s tng nim chí thành, dù có thu hiu cũng không tht ích, hung chi khó thu hiư? Đến như các môn pháp tướng, thin, giáo, nghiên cu trn đi cũng khó nm được ch quy thú, dù được, còn phi dt sch hết hoc nghip mi thoát khi luân hi. Nói đến vic này, e rng mng không thành mng đó thôi! B Văn Sao ca ta, ngươi xem chưa k, nên li nói ra, cao thì ti mây xanh, thp li tn đáy bin thm. Trong y, luôn luôn nhc đến nhng kinh sách nên xem, cách thc xem như thế nào, và s khó được li ích ca các môn pháp tướng, thin, giáo. S dĩ có s khó d vì pháp môn Tnh đ nương nh sc t ca Pht, các pháp môn khác ch dùng sc mình. Nhng môn kia đu là giáo lý thông thường, như sĩ phu trong đi do tài đc mà làm quan cao thp. Môn Tnh đ là giáo lý đc bit, như Thái t mi sanh đã tôn quí hơn qun thn. Vì thế, hai bên không th sánh nhau, mà phàm phu nghip chướng vn nhiu, há chng dè dt trong s la chn pháp môn đ tu hành ư?

Ngươi đã t nhn năng lc kém hèn, kiếp người có hn, sao còn mãi theo cao vng ca mình? Viy ta không ép, nếu ngươi làm được bc đi thông gia thì cũng hân hnh cho Pht giáo, s e khi làm chng xong, môn Tnh đ li chưa tin chc, ri ra hng mt c đôi. Gi s đi nay có tu được chút ít công đc, kiếp sau nht đnh s lc vào vòng phước báo ca thế gian. Ngươi th nghĩ: người giàu sang đã my ai không to nghip? Như ngày nay vn nước nguy biến, dân chúng lm than, đu do bnh hưởng phước báo ca nhng người đi trước tu hành không trí hu. Khi đã lc vào kiếp sau, ngươi làm thế nào bo đm được mình khi mê lm, không đa ác đo? Nếu chng sanh v Tây phương, mt đi không đa còn có th, hai đi không đa rt ít lm đó!

 

III

 

Pht nói kinh chú rt nhiu, đâu có ai th trì cho hết được. Nên người xưa ch la nhng th cn yếu đ làm nht khóa. Sm thì tng Lăng Nghiêm, Đi Bi, Thp Chú, Tâm Kinh, xong li nim Pht hi hướng Tây phương. Ti đến tng Kinh Di Đà, văn Đi Sám Hi, Mông Sơn, ri nim Pht hi hướng. Hin nay các chùa đu bt công phu, thi mai ch tng Lăng Nghiêm, Tâm Kinh; thi hôm tng Kinh Di Đà, văn Mông Sơn, cách ngày li tng Kinh Đi Sám Hi, Mông Sơn. Ngươi nói nghi nht tng trong tòng lâm kinh chú rt nhiu, đó là nhng th ph lc ngoài hai thi khóa. Người cư sĩ ti gia có th y theo thi khóa ca nhà thin, hoc tùy ý mình lp riêng. Như sm ti đu tng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, nim Pht; hoc sm tng chú Đi Bi, nim Pht, ti tng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, nim Pht, hay trì Kinh Kim Cang cũng được. Nhưng không lun tng nim kinh chú chi, đu phi nim Pht hi hướng, mi hp vi tông ch tu Tnh nghip.

Nhng điu ngươi bày t, tuy cũng là ý tt, song tht ra không có ch đnh, ch theo hoàn cnh đi di. Kinh nào, chú nào, li chng ngi khen công đc thù thng? Theo quan nim ca ngươi, tng kinh này s mt kinh kia, trì chú này tt buông chú n, b hết nghĩ tiếc ung, tng trì c sc li không kham. Như thế có được glà người chơn tu hiu lý hay chăng? Suy rng ra, nếu ngươi gp nhà tu Thin khen pháp Thin, bác Tnh đ, cũng bt chước h tham thin; cho đến các môn khác như: Thiên Thai, Mt Tông, Pháp Tướng, Hin Th, mi khi gp bc tri thc đ xướng, tt ngươi s mt ch đnh b đây theo kia. Chng biết ngươi căn tánh bc nào, mà mun thông sut hết các pháp như thế? Ta ch e cho ngươi nghip sâu trí cn, khi làm nhà đi thông gia không được, li b luôn c pháp nương sc Pht vãng sanh ca môn Tnh đ, đ lúc lâm chung nếu chng đi đến vc du lò la, quyết lc vào bng nga thai la! Gi s may mn không mt thân người chăng na, li do đi nay tuy có công tu song thiếu chánh trí, nên nhân đó hưởng được si phước, ri to nghip ác, khi vô thường đến, cũng đi thng vào tam đ. Chng y mun nghe tên tri, đt, cha, m còn không được, hung na là biết pháp môn Tnh đ ư? Ngươi xem Văn Sao ca ta hiu như thế nào? Phi biết, mt câu A Di Đà Pht, nếu trì nim đến ch cùng cc, thành Pht còn có dư. Ngươi cho rng tng Kinh Di Đà và nim Pht, không th dit được đnh nghip hay sao? Pht pháp cũng như tin, ti người khéo dùng; ngươi có tin, làm vic gì li không được? Nếu ngươi có th chuyên tu mt pháp, cu s chi li chng thành? La là phi khăng khăng trì chú này tng kinh kia mi được công đc như thế, ngoài ra không được nhng công đc khác hay sao? Nếu khéo th theo li ta, t nhiên hiu mt vic rõ trăm vic; bng chng thế, dù nói cho nhiu, tâm ngươi cũng không ch đnh, nào có ích gì?

Phàm phu  trong mê, lòng tin không vng, nên thường có nhng vic khi tu hành khi to nghip, thot tin tưởng thot nghi ng. Đó cũng bi lúc ban sơ người dy không biết cách, nếu trước tiên đem vic nhân qu thin cn ch bo ln ln, thì đâu đến đi có s mê lm trái ngược như thế! Nhưng ti đã qua tuy rt nng, nếu hết lòng sám hi sa đi, y theo s hiu biết chơn chánh, chí quyết tu Tnh nghip, li mình li người, thì ti chướng tiêu mòn, tâm tánh sáng t. Nên kinh nói: “Trong đi có hai bc anh dũng, mt là người không to ti, hai là k đã to mà biết sám hi.” Mt ch hi phi t đáy lòng phát l, nếu không tht tâm ăn năn cha ci, dù nói lm cũng là tha. Ví như người đc phương thuc mà không chu ung, làm sao bnh được lành? Nếu có th y theo cách tr dùng thuc, chc chn bnh s tiêu tr, thân tâm yên n. Ch lo cho k lp chí chng bn, thành ra cnh mt ngày phơi nng mười ngày đ lnh, ri cũng lung có danh suông, không phn tht ích mà thôi!


20/ Thơ Đáp Cho Cư Sĩ Uông Võ Mc

 

 

Võ Mc tôi nim Pht đã mười năm, mi biết chút ít ý thú. Thiết nghĩ phương pháp ch dy v môn Nim Pht ca các Ngài Linh Phong, Mng Đông và b Văn Sao ca Tôn Sư, đi đ đu là phương tin lp thiết cho hng ngu ti quê mùa. Như bn chúng tôi, được thông hiu ch nghĩa, hay suy nghĩ tìm tòi, nếu c dùng phương pháp y, chc không th sanh v Tnh đ! Theo ngu ý, nhng người nim Pht cu vãng sanh, trước tiên phi biết: “nim Pht đó là ai?” Vì nếu thy được ch nhân ông, thì nim Pht mi có ch dùng và s vãng sanh mi có th cm vng! Chng riêng gì nim Pht cn nên như thế, mà tng kinh trì chú đu phi theo đường li này. Người đi nay khi nói đến nim Pht là bo: phi nim cho già gin, tm lòng như chết, mi có th vãng sanh. H đâu biết, nếu không rõ “nim Pht đó là ai?”, thì làm sao nim được già gin và tm lòng như chết? Như thế, gi s mi ngày đêm nim đến mười muôn câu, đi vi vic sanh t có quan h gì? Có k li bo: “Người xưa phn nhiu chuyên chú v trì danh, không tham cu trong câu nim Pht.” Võ Mc tôi nói: “Đó là vic sau khi tham cu xong ri ca c đc, hng sơ cơ không nên bt chước theo.” Người nim Pht đi nay, mười phn hết chín không rõ ý ch y, tht đáng thương xót! Tôi thường thường cn li khuyên bo, mà hàng cư sĩ có k li cho tôi là tà kiến na. Nghĩa mu Pht pháp chìm ti đến thế, nghĩ nên than th, ngm ngùi!

Nay xin bày t ni lòng, kính cu Tôn Sư n chng và mong đem nghĩa y gii rng thêm ra. Đó là hnh phúc ca chúng sanh, đâu nhng riêng cho Võ Mc!”

Xem rõ ý trong thơ, riêng lòng xiết bao khen ngi! Các h có tâm rt tt, mun cho mi người đu thy tánh bn lai, đ sanh v phm sen bc thượng. Quán Kinh nói: “đc tng Đi tha, hiu nghĩa th nht, phát lòng B đ, khuyên nhc người tu”, âu là bn ý ca các h đó chăng?

Tuy nhiên, nói Pháp cn phi hp cơ, nếu không xét căn cơ, lm cho pháp dược, thì đng vi k dung y dùng thuc giết người. Nên biết hai tông Thin, Tnh, ci ngun vn mt, song li tu khác nhau, bên Thin ly s tánh bn lai làm tông, bên Tnh dùng tín, nguyn, nim Pht cu sanh làm yếu ch. Gi s người đi là bc thượng căn, thì li ca các h tht có li vô cùng. Nhưng xét li, người thượng căn rt ít, k trung, h quá nhiu, nếu không dy phát tín, nguyn cu sanh, mà bo tham cu câu nim Pht, đó là điu hi ln. Vì nếu tham cu được t ng, vn là hân hnh, song còn phi phát thêm nguyn thiết đ cu vãng sanh. Như tham cu không thành, mà trong tâm thường gi quan nim “không biết nim Pht đó là ai, chng th vãng sanh”, thì quyết khó cùng Pht cm thông và được nh s tiếp dn. Người biết được “nim Pht đó là ai”, chính là bc đã t ng, thy sut chân tánh. Đi nay, tham cu đến ch đi trit đi ng phng có my người? Đng nói chi ai, chính như các h cũng chưa tng đến đa v y. Ti sao biết được? Vì nếu các h đã đến, quyết không khi nào dám nói nhng câu: “Ngài Linh Phong, Mng Đông lp thiết đ dy hng ngu ti quê mùa không biết nim Pht đó là ai, chng được gi là nim già gin, tm lòng như chết dù cho mi ngày đêm nim mười muôn câu, không quan h gì đến vic sanh t, và người xưa chuyên ch trì danh là vic sau khi tham cu, k sơ cơ chng nên bt chước theo.”

Xét ra, tm lòng các h tht mun cho mình và người đu được li ích, song li nói ca các h, chính mình đã lm, li khiến cho người lc lm. T đây xin ch nói nhng ly na, bng chng thế, pháp môn rng ln đ khp chúng sanh ca Như Lai, s b các h vùi sâu, đóng kín, không được m thông. Ly đng vi ti khinh báng Pht, Pháp, Tăng, phi nên dè dt! Ch thy hiu ca các h, vì không khéo tùy căn cơ, đem pháp thượng căn khuyên mi người tu tp, nên thành ra thiên chp, sai lm. Các h chng biết, li cho mình hiu đúng vi nghĩa chân tht ca Pht pháp, cu xin n chng. „n Quang tuy hèn kém, đâu dám lm ha nhn khen giúp theo, đ chính mình và các h đu sa vào ti khinh báng Tam bo hay sao? Như cho li ca k dung tăng này không đúng, xin c tùy ý mi người t đi riêng đường li là xong. „n Quang đâu dám ép k khác b s kiến đ theo ý hèn ca mình. Chng qua vì các h hi đến, nên bt đc dĩ phi thng li dâng chút ngu thành đó thôi.

Rt hân hnh mong nh s xét nghĩ xa rng.

 

21/ Thơ Đáp mt Cư Sĩ  Ninh Ba

 

 

Được thơ, biết cư sĩ siêng năng đi tr tp quán, song chưa có hiu quy cũng bi cư sĩ không tha thiết vì vic sanh t, ch đem “pháp môn vượt phàm lên Thánh, dt tr hoc nghip, thành tu tnh nim”làm vic ly có bên ngoài. Duyên c không được tht hiu là ti ch đó! Phi thường xét nghĩ: “thân người khó được, pháp Pht khó nghe, môn Tnh đ rt là khó gp. Nay ta đã may mn được thân trượng phu, li có phước duyên gp môn Tnh đ, dám đâu đem ngày gi hu hn đ cho sc, thanh, danh, li làm tiêu mòn hu hếư? N cam chu mãi kiếp sng suông chết ung, ri vn đm chìm trong sáu no, không biết chng nào thoát ly đó ư?” Li phi đem mt ch chết dán trên đu, khi gp nhng cnh không nên tham luyến, lin biết đó là vc du lò la đ làm kh ly cho mình, thì quyết không đến đi như con sâu bướm bay vào đèn t tìm ly s thiêu đt. Lúc gp nhng điu đáng làm, li nghĩ đó là thuyn t cu kh, tt không còn st sè trong vic nhân nghĩa, biếng tr trên bước tu hành. Được như thế, cnh trn cũng có th làm duyên nhp đo, đâu phi t b hết s đi mi là tu nim? Nếu tâm có ch trương, không xoay theo hoàn cnh, thì trn lao chính là gii thoát. Cho nên trong Kinh Kim Cang luôn luôn khuyên bo chng nên tr tướng; tuy phát tâm đ tt c chúng sanh, song không thy mình là người hóa đ, chúng sanh là k được đ, cho đến dù chng đo cũng không thy có tướng th gi ca qu Vô Dư Niết bàn. Đó mi là người tht hành đo B tát. Nếu trái li, dù có đ sanh hay tu muôn công đc cũng không th hp vi tht tướng nht tha, vì chng hiu chúng sanh đương th là Pht, trong tánh bình đng lm khi tâm phân bit, khiến cho s li ích vô vi hóa thành phước hu vi. Như thế làm sao thoát khi vòng ràng buc ca sc tài danh li?

Ngườđi phi có bn phn, nhưng ngoài phn vic ca mình, ch thêm điu chi vô ích. Nên đ thi gi y, tùy phn tùy sc tng kinh nim Pht, quyết chí cu sanh Tây phương. Đi vi tt c vic lành, hoc ra ca tin, hoc dùng li đ tán tr, nếu không thì phát lòng vui theo, cũng có công đc. Và phi đem nhng điu này hi hướng, ph giúp cho s vãng sanh. Như thuyn đã đi theo nước xuôi li thêm chèo chng, chng là mau v bến hơn đó ư? Ba mươi tháng chp là ngày cui năm, nếu không có d b saün sàng trước, đâu th tránh khi các tay ch n? Gi phút lâm chung chính là ngày ba mươi tháng chp ca mt đi, nếu chưa đ tư lương Tín Nguyn Hnh, vn còn nghip ác tham gin mê, thì oan gia ch n t vô lượng kiếp đến nay, đu ti đòi hi lôi kéo. Đng nói chi k không biết pháp môn Tnh đ phi bó tay theo nghip th sanh, tc như người biết mà không thiết tht tu trì, cũng b nghip lc lôi cuvào sáu no, kiếp kiếp chu luân hi. Mun cu đường yếu thoát kh, ch có mi nim s chết và chết mà đa vào ác đo, thì câu nim Pht t thun, phm sen thành tu, tt c cnh trn không th cướp được chánh nim.

Tâm Kinh nói: “Soi thy năm un đu không, vượt qua tt c kh ách.” Năm un bao quát thân tâm và ngoi cnh, nếu thy đó là không, thì chính nơi năm un mà ri năm un, ch nào không phi pháp môn đi gii thoát, cnh gii đi Niết bàn?

 

22/ Thơ Đáp Nhc Tiên Kiu

 

 

Mun trong hin đi tht ích, phi y pháp môn Tnh đ, tín nguyn nim Pht cu sanh Tây phương, tt s thoát đường sanh t. Nếu chng thế, đng nói k không được chơn truyn ca Pht giáo không th gii thoát, dù có được cũng tuyt phn! Vì được chơn truyn là đi trit đi ng không phi tht chng. Chng mi khi luân hi, ng vn còn trong vòng y. Tu các pháp môn khác, đu phi dt hoc chng chơn mi thoát sanh t. Riêng môn Tnh đ, ch cn đ tin sâu, nguyn thiết, trì danh hiu Pht, dt các điu d, làm nhng vic lành, gm tu c hai phn chánh tr, quyết đnh s vãng sanh. Hơn na, v phm v còn được chiếm ngôi ưu thng. Li chng nhng người công hnh tinh thun quyết được sanh, mà k phm ti Ngũ nghch, Thp ác, khi sp chết biết tnh ng, hết sc h thn, s hãi chí tâm nim Pht vài câu lin mng chung, cũng quyết được sanh. Bi đc Pht lòng t rng ln, chuyên ly s đ sanh làm bn phn. Nếu k nào biết mt nim quay v, lin được nhiếp th. Đó gi là “nương nh sc Pht, đi nghip vãng sanh.”

Người đi Mt pháp, nếu tu các môn khác, không y theo Tnh đ, ch được phước báo  cõi Tri, Người và gieo nhân gii thoát nơi kiếp lâu xa v sau mà thôi. Do bi chúng sanh đi này không đ sc dt hoc nghip, nên gc sanh t hãy còn. Như thế làm sao khi mc li mm mng sanh t?

 

23/ Thơ Đáp Cư Sĩ Trương Vân Lôi

 

 

Quyn Nhp Pht Vn Đáp có th dn dt k sơ cơ khiến cho h ln ln đi sâu vào giáo lý đo Pht phát lòng tin chơn chánh. Nếu in ra đem biếu tng đ kết pháp duyên, thì công đc còn chi ln hơn? Nhng quyy lun rng v s lý trong Pht giáo, tuy có nói đến pháp môn Tnh đ, tht ra chưa t bày hết ý nghĩa ca tông này. Nếu người đã có lòng tin, nên tìm xem các kinh sách Tnh đ. Như không đ phương tin đ kho duyt nhiu, thì đc k mt quyn Knh Trung Knh Hu Knh cũng được. Quyn này gom góp nhng yếu nghĩa ca tông Tnh đ, chia thành môn loi rõ ràng, rt li ích cho k sơ cơ. Nếu được xem, có th đi thng vào ch nhim mu ca môn nim Pht, đ tn công nghiên cu các kinh sách Tnh đ khác.

Pht pháp tùy người mà lp, quyết không nên chp theo quy c thông thường, khiến cho trái vi căn cơ và mt s li ln: mt đi được liu thoát. Vy nên lượng theo căn tánh mình, t sp đnghi thc tu trì. Chú Vãng Sanh bng Phm Văn, hc được rt tt, song ch nên sanh lòng phân bit cho li tng xưa nay là không đúng. Nếu có quan niy, s vướng thêm mi nghi ng đi vi tt c chú văn trong đi tng, ri nhn lm rng nhng bài y không hp ý Pht. Nên biết thu xưa các bc tôn đc dch kinh, chng phi là làm vic lung suông, ch thy li dch mi khác hơn, vi xem thường li cũ. Hơn ngàn năm tr li đây, người tng chú theo bn dch cũ, được li ích biết bao nhiêu, đâu phi nhng ngườy đu không hiu Phm văn? Vy hc vn nên hc, nhưng đng sanh quan nim hơn kém thp cao, thì s li ích t nhiên không th nghĩ bàn!

Phép trì chú cũng ging như cách tham câu thoi đu. Tham câu thoi đu, vì không th gii nghĩa, nên dt được tình phàm phân bit, chng vào tánh thiên chơn. Trì chú bi không biết nghĩa lý, ch hết lòng thành khn tng nim, nên nghip chướng tiêu tr, phước hu to rng. Nhng s li ích y, không th đem tâm tư nghĩ ngi suy lường. Nghi thc l Pht không tin lp riêng cho người có vic cn kíp, ch nên hết lòng thành khn, ming xưng danh, thân cúi ly, tưởng như Pht hi trước là được. Sng trong đi kiếp trược, chúng sanh tranh đua giết hi ln nhau, nếu không có lá bùa h thân, chc khó khi tai ha. Lá bùa y, chính là chí thành l nim Pht A Di Đà. Li, đc Quán Thế Âm Đi sĩ bi nguyn rng sâu, tìm tiếng cu kh, tùy cơ cm ling hin, ngoài thi hôm sm l Pht, nên thêm l nim Đi sĩ, tt s được s gia b trong âm thm, có th đi ha làm phước, gp ri hóa may mà chính mình không t biết.

Trên đây là li k quê mùa  phương ngoi vì người tri k lp phép cu đi. Nếu nói rng “vì tt c thế gian”, chng phi là không th được, ch e người đi không chu y phương pháp thc hành, thì biết làm sao?

 

 

24/ Thơ Gi Cư Sĩ T Dung Thoát

 

 

Nơi quê hương ca các h được biết pháp môn nim Pht, là do Lâm Gii Sanh thnh kinh sách Tnh đ đem v truyn bá. Nếu trong đi trước các v cư sĩ không trng căn lành đi vi pháp môn y, thì đâu có th ly gương xưa làm Thy, sau khi nghe ri lin sanh lòng tín nguyn, t tu và khuyên ngườư? Và, đâu có th trong vòng không đy mười lăm năm, đo pháp lan rng như thế ư?

Xét v thiên tư và cnh duyên ca các h đi vi thi cơ pháp vn hin nay, thì ch nên gi năm gii đ h trì Tam bo, truyn Tnh đ mà khuyên chúng vãng sanh, là hp lý hp thi và cn yếu hơn hết. Ti sao tôi li nói như thế? Vì, các h tui đã hơn bn mươi, căn tánh chưa phi là bc thượng, nếu mun nghiên cu Tng Kinh, tham hi hàng tri thc, e cho pháp môn quá rng, ngày tháng chng nhiu, ri khi tr tay không kp, có s ăn năn. Li hin nay tuy có bc tri thc, song Tăng chúng phn nhiu đu ô lm, bn đng hnh ít người (đng hnh: bn giúp đ v phn tu tp, có th khin trách ln nhau, khiến cho đo hnh tiến thêm), nếu khi chí hướng thượng suy kém, tt s biếng tr cũng nương theo, khó b gng gượng. Như tôi năm hai mươi mt tui, t cha m xut gia, cũng có th gi là lp chí mnh và phát tâm chơn. Nhưng đến nay tui đã năm mươi ba, mà bên tông bên giáo đu không s đc chi c. Nghĩ ti thn lung ph ơn m cha, ung làm con đc Pht! Song cũng may, đi vi môn Tnh đ, khi mi xut gia hc Kinh A Di Đà, tôi đã sanh lòng tin, tht chưa nh bc tri thc nào ch dy. Vì lúc đó Thy th nghip và các v tri thc ch chuyên v s tham cu, nhng li khai th đu phá môn Tnh đ. Tôi lượng biết sc mình, nên không lay chuyn theo ai, dù Pht, T hin thân cũng chng đi ý, hung na là li nói ca bc tri thc bên tông Thin? Li hin nay, chánh yếu tà mnh, vic h trì Pht pháp, vi tc thì d, vi tăng li khó. Nếu các h gi chc năm gii, chuyên nim Pht, v phn tu thân li và hnh hip nhau, thì có th truyn bá chánh pháp, làm li ích cho mi người. Song ch nên  đa v Thy mà t cao, và th tin ca đ li dưỡng. Phi đem l chánh khuyên bo nhng k thân sơ, tt mi người đu mến đc vâng theo li. Đó gi là: “sa mình được chánh, tuy không bo người cũng theo, như c  trước ngn gió tt phi thun chiu vy.” Lnh lang không tin đo Pht, cũng chng nên ép, đi khi nào cnh ng đy đưa khiến cho tánh thiên chơn phát l, chng y ch dùng mt li nhc bo, t nhiên tm lòng ca y s phơi phi hướng v chánh pháp, khó ni cn ngăn.

Liên xã mi m phi có quy tc nht đnh và thn trng v vic cho người n d vào. Chng nên bt chước theo các nơi khác, th ơ không kiước, đ đến đi mt pháp va lp trăm mi t sanh theo, điy rt cn yếu. Không cơ duyên được l bái Xá Li và gn gũi tòng lâm, viy có hi gì? Nếu khi thy tượng Pht, tưởng như Pht sng, thy Kinh Pht, li T, tưởng như Pht, T đi trước mình ch dy, tm lòng knh s không dám biếng tr, tc là trn ngày được thy Pht và gn gũi các bc B tát, T sư, Thitri thc. Như thế, Xá Li và tòng lâm có thm vào đâu? V tp quán thô l, đng nói hàng cư sĩ, nếu người xut gia mà không chơn tu, li còn quá hơn thế tc. Mun tr b tánh y, trước phi nhn rõ các pháp gia đi đu là kh, không, vô thường, vô ngã, hoc nhơ nhp, thì ba ngn la tham, gin, mê, s du tt ln. Nếu chưa dt được, phi dùng lòng ngay tht, xót thương, nhn nhc, tha th mà đi tr. Thng hoc còn chưa dt, c tưởng rng mình đã chết, thì bao nhiêu s nóng bc đu hóa thành mát m tươi nhun. Kinh Báo Ân dy phi ln lượt th gii, người xut gia khi th gii cũng y theo th đ: gii Sa di, Tỳ kheo và B tát. Nhưng người xưa th gii là phát tâm vì dt s sanh t, trái li, người đi nay phn nhiu đu mun cho ra v mt v đi Tăng, đc gii hay không, chng cn nghĩ đến. Vì thế, my ông sư thiếu hc thiếu tu bên ngoài, đu là nhng người đã th qua ba đàn đi gii c. S t đó do bi vua Thế T nhà Thanh b đ đip, bãi l thí Tăng mà ra. Cho đến nhng k xưng là Thy người, song ch cu danh li, tham quyến thuc, cũng xut phát t nguyên nhân y. Tôi e chư Tăng  quí đa không rõ điu này, bo rng đ người xut gia là vic rt tt, đ cho hng vô li ln vào ca Pht phá hy chánh pháp, nên chng s t him mà nói thng ra.

Môn Tnh đ là pháp rt mu nhim, viên đn nht trong mt đi thi giáo ca đc Như Lai. (Viên đn: mt pháp đ tt c pháp là viên, hin đi tu, hin đi gii thoát là đn). Hng phàm phu thp kém đu được d vào, bc Đng giác B tát cũng không th vượt ra ngoài pháp y. Tht là con đường rt tt đ mau đi đến qu Pht cho thượng Thánh h phàm. chư Pht, chư T đu dùng môn này làm chiếc thuyn t đ đ khp tt c chúng sanh. Đi vi mt pháp như thế mà chng sanh lòng tin, hoc tin mà không chơn thiết, đó là người nghip chướng sâu nng, không ưng được gii thoát, s phi chu kh luân hi không biết lúc nào ra khi. Khi đã  trong vòng sanh t, dù có được làm thân Tri, Người cũng ngn ngi như l khách ngh nơi quán tr. Trái li, phn đa vào ác đo, thi gian rt lâu dài, như ngườ yên nơi quê nhà. Mi khi tôi nghĩ đến điu này, bt giác c s, nên chng nài mi nhc, khn thiết t vi đng nhân. Nay xin dn mt bng chng rõ ràng, đ các h phát thêm lòng tín nguyn và đem ra khuyên bo mi người.

Nhng kinh chuyên nói v tông Tnh đ, có ba quyn: Pht Thuyết A Di Đà, Quán Vô Lượng Th và Vô Lượng Th Kinh. Ngoài ra, các kinh đin Đi tha phn nhiu đu phát minh pháp môn này. Như Kinh Hoa Nghiêm là khi đc Pht mi thành đo, vì các bc pháp thân Đi sĩ trong bn mươi mt v: Thp tr, Thp hnh, Thp hi hướng, Thp đa, Đng giác, nói pháp cao c v gii ngoi, hàng phàm phu và Nh tha đu không th biết được. Sau rt, trong phm Nhp Pháp Gii, Thin Tài đng t vâng li dy ca đc Văn Thù, đi tham phng khp các bc tri thc. (Đng t: danh t xưng tng bc dt hoc chng chơn, phá vô minh tr v bn tánh, tâm hnh trong sch chân tht ví như k đng t. Người đi không biết, v hình tượng nhi đng là sai lm. Như đc Văn Thù, trong Kinh Hoa Nghiêm có ch gi là Văn Thù Đng T. Các kinh khác đôi khi cũng dùng danh t này đ xưng nhng bc B tát). Ban đu Đng T ra mt Ngài Đc Vân nghe pháp môn nim Pht, lin chng bc Sơ tr. Kế đó ln lượt tham hc mi nơi đu được chng, cho đến v tri thc th năm mươi ba là đc Ph Hin. By gi, B tát Ph Hin dùng oai thn gia b, khiến cho ch chng ca Đng T bng mình và chư Pht, (đây gi là Đng giác B tát) ri khuyên Ngài Thin Tài cùng hi chúng B tát trong cõi Hoa Tng phát mười nguyn rng ln, đem công đy hi hướng v Tây phương Cc lc, đ cu mau phương tròn qu Vô thượng B đ. Li, chương H Phm H Sanh trong Kinh Quán Vô Lượng Th nói: “Nhng chúng sanh to năm ti nghch, mười điu ác, làm đ nhng vic chng lành, s phi đa vào Đa ngc, tri qua nhiu kiếp chu s kh vô cùng. Nhưng nếu k y khi sp chết gp bc Thin tri thc khuyên bo nim Pht, lin vâng li nim đ mười câu, tc thì ti chướng tiêu tr, được vãng sanh.” Như Trương Thin Hòa, Trương Chung Quì, trong Long Thơ Tnh Đ Văn chính là hng người đó. Thế thì, trên như đc Văn Thù, Ph Hin là nhng bc Đi B tát, dưới như k phm năm nghch mười ác sp đa tam đ, đu thuc v cơ nhiếp hóa ca môn Tnh đ. Bao nhiêu đó cũng đ thy pháp môn này qung đi không b sót mt ai, và đc A Di Đà hnh nguyn rng sâu, xem chúng sanh bình đng. Tôi thường có đôi lin:

“B đường tt Tây phương, chín cõi chúng sanh khó th được tròn nên qu giác.


R
i ca mu Tnh đ, mười phương chư Pht không vn toàn đ khp hàng mê.”

Các h gng phát lòng mnh m tinh tiến, đm đương pháp này. Nên đem nhng ngôn lun hp cơ v s truyn dương Tnh đ ca người xưa, ging li cho trong thôn p nghe. Làm sao cho  trn không nhim, nơi tc tu chơn, mi hp vi danh nghĩa hai ch “Dung Thoát”. Vì “Dung Thoát” là ln vi trn mà thoát khi trn vy. Đó là ý kiến quê hèn ca tôi, các h nghĩ thế nào? Xin suy gm li.

 

25/ Thơ Đáp Cho Cư Sĩ T Thành Minh

 

 

Được thơ, biết nơi quí đa còn có tâm pháp ca Nho, Pht, các h li hết sc đm đương, tôi rt ly làm vui đp! Đến như nhng li khen tôi, tht là đưa ngn c khi lu cao, khoe mt cá hơn châu ngc, quá dùng theo li khách sáo ngoài đi, khiến cho người xiết bao h thn! „n Quang vn mt k dung tăng, hng đón ly canh tha cơm hm nơi nhà bc phú trưởng gi đ t nuôi sng, nếu có ai không chê rng nng mùi, cũng đem đ chia st cho nhau. Nhưng cư sĩ T Hut Như bo rng thc ăn y có ích cho người đói, nên my phen đem li k quê mùa này in ra lưu b, tuy v ý có phn kh th, song văn chương không đáng đ nhìn. Chng dè b Văn Sao ca tôi li làm ln mt xanh ca các h, tht nghĩ cm thn không cùng! Trong y, nhng đim: chánh tâm, thành kính, dùng đ đi tr s tìm cu bên ngoài, s không biết kiêng s ca người đi nay, cũng có đôi phn ích li cho k sơ hc. Nhưng, nếu bc thông Tông hiu Giáo được trông thy, chc không khbt nhn ra. Tuy nhiên, nếu ma hết nhng thc ăn khó tiêu ca Tông Giáo, thì canh tha cơm hy cũng có th bi b ngươn khí, đi đến khi sc khe phc hi, li dùng th cao lương m v mi được tht ích.

V các pháp môn: Lut, Giáo, Thin, Tnh, th nào hp cơ, xin xem k bài Tnh Đ Quyết Nghi Lun trong Văn Sao ca tôi s t rõ. Bc đi thông gia tuy gm tu Thin, Tnh, song tt ly Tnh đ làm ch. Nếu như hng người thường không cn phi nghiên cu khp kinh lun sâu xa, ch nên làm lành dt d, mt lòng nim Pht cu v Tây phương mà thôi. Hng ngườy vn sinh sng theo đi mà gm tu đo xut thế, tuy t h bình thường không chi kỳ l, song được s li ích chng th nghĩ bàn! Vì k quê mùa dt nát ch dùng lòng chơn thành tin tưởng nim Pht, nên có th thm hp cùng đo mu, cm thông vi trí Pht. Người thông hiu giáo lý, nơi tâm thường hay tính toán suy lường, nên trn ngày thc th trong vòng phân bit, so li không bng s chơn thành ca hng ngu ti kia. Cho nên, k quê dt nim Pht rt d được li ích. Bc đi thông gia như có th buông b tt c cũng d được li ích; trái li nếu ch suy lường nghĩa lý, chng nhng không đc ích, e có khi tr thành bnh, hoc chưa được cho là được, lc vào phái ngông cung.

Phép tham thin chng phi là cơ duyên ca người đi nay, dù có hc cũng thành s hiu biết v văn t, quyết không th t sut tâm tánh. Ti sao thế? Vì thiếu bc Thin tri thc dt dìu ch đnh, li người hc chng biết tham thin là thế nào, phn nhiu tuy gi tham thin, song tht ra là ng nhn. Trong bài lun “Tông cùng Giáo không nên ln ln”  “Tnh Đ Quyết Nghi”, tôi đã ch phn đi khái v vic trên đây. Người đi nay, không lun căn cơ thượng, trung, h, đu phi gìn luân thường, gi lòng thành kính, tin chc lý nhân qu, làm nhng điu lành và chuyên nim Pht cu sanh v Tây phương. Nhân qu là cái lò ln đ nung phàm luyn Thánh trong đo pháp thế và xut thế gian. Nếu trước tiên không nghiên cu v nhân qu, sau khi thông hiu Tông Giáo, e cho còn s li lm đi vi vn đ này, và đã li lm tt có phn sa đa. Vì thế, ch cho nhân qu là cn ct mà xem thường. Phàm phu vì tâm lượng nh hp nên không hiu thu nhng ch nói v nhân qu trong kinh, tht ra, các đng Như Lai thành Chánh giác, chúng sanh đa tam đ, đu chng ngoài đo lý y. Nên ly pháp thin c đi đ làm phương tin vào đo mu, như các thiên: Văn Xương Âm Cht, Thái Thượng Cng chng hn. My quyy, nếu xem k và thc hành theo thì mi người đu có th thoát no luân hi, hoc ít ra cũng làm được hng dân lương thin. Nim Pht tuy trng  s vãng sanh, nhưng khi nim đến cùng cc cũng ng được chân tâm, chng phi đi vi đi hin ti hoàn toàn không li ích. Thu xưa, Thin sư Minh Giáo Tung mi ngày nim Thánh hiu Quán Âm mười muôn câu, v sau nhng kinh sách  đi, Ngài không đc mà biết c. Nên xem Tnh Đ Thp Yếu, Tnh Đ Thánh Hin Lc, s biết nim Pht là nhim mu. V điu này, trong Văn Sao ca tôi cũng thường nói đến. Các h bo: “Nim Pht không được li ích ngay trong đi hin ti”, đó là bi chính mình chưa nghiên cu các kinh lun ca Tnh Tông. Cho đến quyn Văn Sao ca tôi, có l các h cũng đc qua như người chy nga xem đèn, không tế tâm tìm hiu.

Đến như gii lut, chng nhng ch riêng v hình thc bên ngoài, mà nếu không gi lòng thành kính cũng là trái phm. Nhân qu chính là tr ct ca lut, nếu không biết hoc mù m đi vi đo lý này, tc đã trái lut, li lm. Người nim Pht, như gi được tâm nim hp vi chánh lý, thì trong mt hnh gm đ c: Lut, Giáo, Tnh, Thin. Nên biết, tu các pháp môn kia đphi dt hết hoc nghip không còn my tơ, mi được gii thoát. Riêng môn Tnh đ, nếu người tr sch phin não được vãng sanh, tt mau chng pháp thân, k nghip chướng còn nng, khi v Cc lc, cũng đã lên cõi Thánh. So li hai phương din, mt bên toàn dùng sc mình, mt bên nương nh sc Pht, s hơn kém cách xa như vc vi tri. Có nhiu k thông minh, mi khi đc sách v tông Thin thy có ý v, lin t cho mình là thin khách, mun làm bc cao nhân. Hng y không biết Thin, Tnh là thế nào, lm chuc ly li t tôn t đi. Nhng k có kiến gii như thế, quyết không nên bt chước. Nếu noi theo, thì vi vic thoát sanh t, e cho tri qua kiếp s như bi cũng khó mong cu.

Xin xem k li quyn Văn Sao ca tôi s t rõ.


26/ Thơ đáp Cư Sĩ Mã Khế Tây (I - III)

 

I

 

 Thi khóa nim Pht nên tùy ch thích hp riêng ca mi người mà lp. Theo nghi th Nim Pht Đường ca các chùa hin nay, đu trước tng Kinh A Di Đà, kế tng ba biến chú Vãng Sanh, xong li đc bài k khen Pht, đến cui bài, tiếp nim “Nam Mô Tây phương Cc lc Thế Gii, Đi T Đi Bi A Di Đà Pht”, ri đng dy đi quanh theo bàn Pht mà nim. Phép đi nhiu quanh phi t Đông qua Nam, Tây qua Bc, đó gi là thun, là tùy h và như thế mi có công đc.  Tây Vc rt trng phép đi nhiu, nước ta cũng dùng phép này, kiêm c s l bái đ t lòng kính thành. Nếu đi t Đông qua Bc, Tây qua Nam, tc là trái ngược, có ti li, điu này cn nên biết. Đi nhiu quanh nim Pht được mt lúc, ri ngi xung nim thm, ước mt khc li nim ra tiếng. Khi sp xong, quì nim Pht mười câu, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tnh Hi Chúng, mi Thánh hiu đu ba ln, kế đc bài văn phát nguyn, tng Tam T Quy Y, ri l Pht lui ra. Người ti gia, nếu ch nơi cht hp khó đi vi nhiu, thì quì, đng, hoc ngi nim cũng được. Tóm li, phi tùy tin theo cnh duyên, tinh thn, sc khe ca cá nhân mà đnh, nếu nh người khác lp pháp thc cho, e không được hoàn toàn.

“Nim mà không nim, không nim mà nim”, là cnh gii ca người đã nim đến trình đ tâm Pht hp nhau. Đến lúc y, tuy thường nim Pht nhưng không có tướng khi lòng đng nim, tuy không khi lòng đng nim, mà vn hng xưng nim, hoc nim. (Chưa đến lúc tương ng, nếu chng khi đng tâm nim mà nim, thì không nim được). Không nim đây, đng nhn lm là chng nim Pht, vì đó là ch cho trng thái tuyt s khi tâm đng nim, tht ra thì mi câu Pht hiu vn ni nhau không h dt. Cnh giy không d gì được, ch nên nhn lm. Phép quán tưởng tuy tt, nhưng cn phi biết tượng Pht mình thy, thuc v duy tâm hin; nếu nhn lm là cnh ngoài, có khi ma da phát cung. Duy tâm hin là tượng Pht tuy rõ ràng, song không phi hình tướng cht ngi, tht có, nếu nhn đnh như thế thì thành cnh ma. Lúc nim Pht mt nhm hay m, cũng thuc v vic tùy nghi... Kiêm trì Thánh hiu Quán Âm, rt được ch nương ta, tt c mi người đu nên tu như thế. Khi làm vic, không gi được tnh nim, vì chưa đến cnh gii mt lòng chng lon. Như thế tt khó khi s ngăn cách, bi mt tâm không có hai dng. Nên thường đnh tâm soi vào trong.

Mi người đu phi gi bn phn, như ngươi trên có bà ni, cha m, dưới có v cùng em di, chc nghip li nhàn nhã rt d tu trì.  hoàn cnh y chng thiết tht dng công, còn mun xut gia làm chi? Có chrng ngươi xut gia, li được cơ duyên tt như thế đ chuyên tâm tu hành chăng? Nên biết, xut gia có bn phn ca k xut gia, đâu phi b tt c công vic? Như n Quang đây xem ra như người vô s, nhưng cũng b bn buc hu hết tháng năm, không ri rnh đ chuyên tâm nim Pht, hung là k khác ư? Vy nên tùy sc tu trì, đng tưởng nghĩ vic chi ngoài bn phn.

Đó là hnh phúc cho ngươi, mà cũng là điu ta mong ước.

 

II

 

 Người tu hành rt cn yên tâm tnh dưỡng. Ngươi tên Tnh Am, sao chng xét tên nh nghĩa, c sanh thêm vic đ cho mi người ln chán, chính mình li vương ly các chng: ut hơi, xây xm, đau đu? Nếu ngươi còn chng biết t trng, tt ri s th huyết, nh thì thành phế tt, nng hoc đến thân mng không toàn. Chng đó li đ cho người đi mai ma rng ngươi hc Pht tu hành, chng nhng không li ích còn b tn thêm! Ri cũng t nguyên nhân y, mt hng kém hiu biết sanh lòng ph báng, bo: Đó là s tai hi ca Pht pháp. H li tìm đ cách ngăn tr k khác tu nim, phá mt căn lành ca người, my ai tìm hiu ly do ngươi không tht hành đúng theo Pht giáo. Vy ngươi phi biết điu hay d, gng gi tròn bn phn người tu, làm sao cho được s cm thông trong thm lng. Bnh ca ngươi đu do chính mình chuc ly, không t xét tnh, li còn hi ai?

Vy ngươi nên mau ci li và nhiếp tâm nim Pht, kinh đin cũng tm đình li đng xem. C y theo li ta, đ mt vài tháng s được bình phc. Nếu chng thế, thì xin tuyt nghĩa Thy trò, ngày khác có gp nhau cũng đng như người đi đường mà thôi!

 

III

 

Danh là b ngoài ca s tht. Có tht có danh vn không ly làm vinh, vì đó thuc v bn phn. Không tht có danh, đã nhiu thn nhc, hung chi còn mun đăng lên báo đ khêu đng tai mt ca khách bn phương? Viy nếu làm ra, mi người s nghi ng bàn lun, tt tr thành cái tht án trm danh khi đi. Ngươi ch biết mt, chng biết hai, nên ta phi đôi phen gii bày ch rõ. Vi Pht pháp, ngươi tuy có lòng tin sâu, nhưng lưa phô trương, kết giao, du ngon; đó là điu chướng ngi ln cho s tu hành. V li ngươi tui mi hơn hai mươi, mà đã kết giao nhiu như thế, sau này khi hc Pht được tinh thông, chc mi ngày không có lúc nào ri rnh. Nên yên tnh trm lng, s li ích s vô cùng!

Phi gng dè dt và t kim thúc ly!


27/ Thơ Đáp Mt Cư Sĩ  Dõng Giang

 

 

Sc dc là chng bnh chung ca người đi. Chng nhng hng người trung, h b nó làm mê, mà bc thượng căn nếu không kiêng s gi gìn, cũng khó khi mang hi. Xưa nay biết bao trang tun kit có thiên tư làm Thánh hin, ch vì phá không ni lp cy, tr thành k hèn ngu bt tiếu! Vô s loài hu tình cũng vì đó mà sa đa vào tam đ. Trong Kinh Lăng Nghiêm, đc Pht bo Ngài A Nan: “Nếu chúng sanh  sáu đường trong các thế gii, dt được lòng dâm, thì không còn b xoay vn theo vòng sng, chết. Ngươi tu Tam mui, vì cu ra khi trn lao, nếu chng tr lòng dâm, tt không th nào gii thoát.”Vi người hc đo, vn đ trng đi là s sng chết, nếu không mau thng tr căn bnh kia, làm sao lìa ni kh luân hi? Như pháp môn nim Pht tuy là đi nghip vãng sanh, song nếu đem lòng dâm c kết, tt s cách ngăn vi Pht, đo cng khó giao thông. Mun dt mi hy, không chi hơn khi thy tt c người n, đu tưởng là thân thuc, oan gia và nhơ nhp.

Tưởng như thân thuc là thế nào? Khi thy người người n tui cao thì tưởng là m, ln hơn mình tưởng là ch, nh hơn tưởng là em, nh hơn na, nên tưởng là con. Người lòng dc dù mnh, quyết không dám đi vi m, ch, em và con, sanh nim bt chánh. Đó là dùng luân lý ngăn dc tâm khiến cho không phát khi.

Tưởng như oan gia là thế nào? Người đi, theo tình thường khi thy sc đp lin đng lòng luyến ái. Do tâm mê nhiy, nên đa vào ác đo nhiu kiếp chu kh không được thoát ly. Thế thì v kiu m đp tươi, sánh vi cp, sói, rn rít cùng các th thuc đc, còn hi gp trăm ngàn ln! Đi vi mi oan gia rt ly, còn quyến luyếưa thích, há chng phi là ngu mê quá lư?

Tưởng nhơ nhp là thế nào? Sc đp ch là mt lp da mng bên ngoài. Nếu banh lp da y ra, thì dy đy nhng xương, tht, máu, m, đm, dãi, phn uế, hôi tanh nhơ nhp không ai mun nhìn! Nhng th không đáng ưa đó, ch vì mt làn da mng giu che, làm cho người lm sanh lòng yêu mến. Như chiếc bình đp đng đ hôi nhơ, không ai cm ly đ ngm, xem. Lp da ca m nhân chng khác chi chiếc bình đp kia, trong y nhơ nhp còn hơn phn, đâu nên ch ưa thích b ngoài, quên hn b trong, lm sanh vng tưởng ư? Nếu không răn dè s hãi, thng tr tp tánh y, tt b v đp mng manh phnh gt, mũi tên y s ghim sâu vào xương ty, làm sao t nh ra? Lúc bình thường đã như thế, mà mun sau khi chết chng đa vào bào thai, viy không th có. Nhưng vào bào thai người còn khá, vào thai loài súc thú mi ra thế nào? Th suy nghĩ k điu này, tâm thn t nhiên kinh đng s hãi! Song, mun cho khi thy cnh không khi lòng nhim, trước phi thường tưởng ba điu trên, thì lúc đi cnh mi khi b lay chuyn. Bng chng thế, dù không thy cnh, ý vn mơ tưởng trin miên, cũng vn b tp khí dâm dc ràng buc. Cho nên, đi vi n sc phi xét nhn thu đáo, quét sch tp quán dc nhim, mi có phn t do.

Mi ngày, ngoài chc phn ca mình, cư sĩ gng chuyên tâm nim Pht và đem hết lòng thành kính tha thiết sám hi ti nghip t vô th đến nay. Như thế, lâu ngày s có s li ích không th nghĩ bàn mà chính mình không t biết. Kinh Pháp Hoa nói: “Nếu có chúng sanh nào nhiu dâm dc, thường nim cung kính Quán Thế Âm B tát, s được lìa dc”, cho đến nhiu gin hn, ngu si cũng như vy. Thế thì biết, nếu chí thành nim Thánh hiu đc A Di Đà, tt cũng được tiêu tr ba món hoc: tham, gin, mê. Li, hin nay là thi bui nhiu hon nn, ngoài gi nim Pht, nên nim thêm Thánh hiu đc Quán Âm. Như thế, s được s chuyn biến rt mu nhim trong âm thm, mi khi cnh khi túc nghip hira không phương trn tránh. Phi tìm xem nhng sách: gii dâm, nhân qu, báo ng, xa lìa bn bè du đãng thì tâm hnh mi được chánh đáng, vng vàng và Tnh nghip mi có th thành tu.

C gng! C gng!

 

 

28/ Thơ Đáp Hai Cư Sĩ Ngn Như, Dt Như

 

 

Xem thơ, thy nh v t ý phin mun vì vic đi buc ràng, không biết làm sao được gii thoát. Mi người đu có bn phn, duyên s tuy nhiu nhưng nếu tâm đim nhiên không chuyn theo cnh, thì đương lúc bn buc cũng được gii thoát an nhàn. Cnh trng y như đài gương soi hình, hình đến không tr ngăn, hình đi chng lưu luyến. Nếu không hiu nghĩa này, dù cho b hết vic đi, nơi tâm cũng còn vương vn, rn ràng chng yên. Người hc Pht biết an theo phn mình, gi tròn nhim v, thì dù có tiếp xúc muôn duyên, mi ngày vn thung dung ngoài cnh vt. Đó chính là nghĩa “mt lòng không tr, muôn cnh đu nhàn” vy.

Đến như nim Pht, rt c s thoát ly vòng sng chết. Đã vì viy tt đi vi ni kh luân hi t sanh chán nn, vi s vui Cc lc t sanh mến ưa. Thế là trong mt nim đ c hai điu tín nguyn. Thêm vào đó lòng chí thành khn thiết như con nh m, thì sc Pht, sc Pháp và sc công đc tín nguyn ca tâm mình, ba pháp đu vn toàn. Lc dng y ví như vng nht gia tri, dù có tuyết sương dđc, không my chc cũng t rã tan. Người mi nim Pht chưa đến lúc thân chng Tam mui, làm sao khi có vng nim? Nhưng nếu biết đem tâm soi vào trong, không theo vng cnh, cũng đã quí lm ri! Ví như hai chiến trn đi nhau, cn phi gi thành lũy mình cho chc, đng đ bên nghch xâm phm, phòng khi quân gic kéo qua lin đón li đánh. Lúc y phi đem binh Chánh giác bao vây bn bên, khiến cho đi phương không đường tu thoát, phi chu quy hàng. Điu cn yếu là v ch soái phi thường thường tnh táo đng biếng tr, hôn trm. Nếu phm hai ly, chng nhng không phá được gic, tr li b gic tiêu dit. Cho nên người nim Pht nếu không biết nhiếp tâm, thì càng nim càng sanh vng tưởng. Nếu có th nhiếp tâm, vng nim s ln ln yếu bt, cho đến khi tiêu tán không còn. Nên người xưa có li k:

“Hc đo dường như gi cm thành,

Ngày phòng sáu gic, ti tinh chuyên.

Tướng, quân, ch soái đu theo lnh,

Chng đng đao thương nước được yên.”



 

29/ Thơ Đáp Cư Sĩ Bao Sư Hin

 

 

Ha ho Ôn Châu nghe qua thê thm! Tai tri nn nước tht không biết đâu là cùng! Cnh kh y đ làm bng chng cho li k: “Ba cõi không an, dường như nhà la” trong Kinh Pháp Hoa, và cũng là mt duyên nhc nh rt thiết cho s tín, nguyn, nim Pht cu sanh v Cc lc.

Nim Pht chng quy nht, do bi không tha thiết đi vi vic sng chết luân hi. Nếu tưởng mình b nước cun la thiêu không ai cu vt, hoc đang  vào gi phút lâm chung sp đa Đa ngc, thì tâm t quy nht, chng cn phi tìm phương pháp chi nhim mu. Vì thế, trong kinh thường nói: “Nên nghĩ s kh nơi Đa ngc, phát lòng B đ.” Đây là li ch dy rt thiết yếu ca đng đi giác Thế Tôn, tiếc vì người đi không chu tht tâm tưởng nghĩ đến. S kh nơi Đa ngc sánh vi thm ha nước la, còn gp không lường, không ngn ln đau đn hơn! Tưởng đến la thiêu nước cun thì s hãi, nghĩ đến Đa ngc li th ơ đó là người trí lc kém ti không th quan sát rõ ràng s kh. Gi s được mt phen tn mt trông thy cnh y, chc bt giác lông tóc dng đng, xương lóng đu rung, không t kim chế được.

 

30/ Thơ Đáp Pháp Hi Đi Sư

 

 

Hơn mười năm nay, tòa h tìm Thy hc đo đ mưu s li ích cho mình và người, đó là điu đáng khen ngi. Nay li buông b muôn duyên, mt lòng nim Pht, ly qu giác làm nhân đa tu hành, có th s thân chng Tam mui và chiếm được phm cao. Nếu tòa h phát lòng qu quyết thì s mong cu tt nhiên thành tu. Nhưng người đi nim Pht tuy nhiu, song chng Tam mui rt ít, vì chưa buông được muôn duyên gi mt nim, nên tâm cùng Pht khó dung hp nhau. Tòa h đã thiết tht gi sch thân tâm, l nào li không có ch s đc? Nhưng trong thơ v my đim: “T lòng thy tánh, thoát ly s sng chết và bng c chng đo đến tay”, cn phi đôi chút phân bit.

Nếu tu theo giáo lý thông thường, dù được t lòng thy tánh, cũng còn cách xa vi s thoát ly sng chết luân hi, vì cnh giy thuc v ng ch không phi chng. Người đi nay ng đo còn rt ít, hung na là chng ư? Chng đo thì hoc nghip mi hết sch, gc sanh t đã dt, không còn cm qu luân hi. Bc Tu đà hoàn by ln sanh lên tri, by ln tr li nhân gian, mi tiêu hết hai món hoc kiến, tư, chng qu A la hán. Ngài Thiên Thai th hi ngũ phm, Ngài Nam Nh ngôi Thp tín; các bc Đi sĩ y còn n tht đc ca mình, t bo ch được đa v ni, ngoi phàm, thì đâu phi d dàng khi mun nói chng đo? Song đây là ước theo giáo lý thông thường đ lun s khó khăn v chng đo trong hin đi. Nếu c theo môn Tnh đ là pháp đc bit ca đc Như Lai lp ra, thì trên t bc Đng giác dưới đến hng ti nng A tỳ, như đ tín nguyn, đu được nương sc t ca Pht sanh v Cc lc. Khi đã vãng sanh, tt s t ng cùng chng đo d dàng như lượm c. Mt điu hơi khác, tòa h chuyên tâm nim Pht, không đ cp đến s vãng sanh trong lúc lâm chung, li nói có th nm chc bng c chng đo. Nói rng chng đo cũng được, sao li bo: bng c đến tay? Nếu bng c đến tay thì không cn lun, thng như không đến mi liu làm sao? Xét qua ý t trong li nói y, dường như tòa h ch nim Pht suông, không phát lòng tín nguyn cu sanh Cc lc. Đó là li dùng s nim Pht làm câu thoi đu ca nhà tu Thin, không đúng vi tông ch Tín Nguyn Hnh trong môn Tnh đ. Nim Pht không tín nguyn so vi phép tu Thin tham câu thoi đu tuy công đc ln hơn, nhưng nếu hoc nghip vn còn, tt không được gii thoát. Li bi không tín nguyn, nên không th nương nh sc Pht tiếp đ, vn là pháp môn t lc thông thường, rt khó chng đo. Ch cho s tín nguyn cu sanh là thp kém, vì trên hi Hoa Nghiêm, hi chúng trong cõi Hoa Tng đu dùng mười đi nguyn vương đ hi hướng vãng sanh. Hơn na, các bc B tát, T sư trong tông Tnh đ đu bo phi phát lòng tín nguyn cu sanh Cc lc. Sao Tòa h li lp riêng môn đình không theo Thánh quy ca Pht, T như thế? Và, người đã sut tháng, sut năm, sut đi nim Pht, đâu nên không tu hnh L Knh? Trong mười đi nguyn vương, L Knh đng đu, tòa h b vic gì còn có th được, quyết không nên b s l Pht. Nếu chng l Pht chc khó cm thông, vì l thân ưa an n, tt thiếu tr duyên đ trin đt hết lòng thành. Theo phép chuyên tu ca Ngài Thin Đo thì thân chuyên l, ming chuyên xưng, ý chuyên nim, nim cùng cc t nhiên ngoài tâm không Pht, tâm Pht như nhau.

S chng đy, các li tu chng v t lc không th sánh kp. V vic này, người xưa đã thí d như tên dân hèn kém nương bánh xe báu ca Luân Vương, mt ngày có th do khp bn châu ln. Vy tòa h không nên đem pháp môn nim Pht rt đc bit, tu theo đường li t lc v quán hnh thông thường. n Quang tuy hèn ngu, tht chng dám ha nhn viy. Nếu tòa h có th dùng lòng trong sch không nhim my trn, phát ba tâm mà nim Pht, thì hin đi s thân chng Tam mui, sau khi mng chung lin sanh v Thượng phm. Như thến Quang xin vòng tay trước đ chúc mng.

K ngu ngàn vic, dùng được mt điu, mong Tòa h xét li.

 

31/ Thơ Đáp Cư Sĩ Hoàng Hàm Chi

 

 

Tiếp được thơ, không xiết vui mng! Tôn phu nhân kiếp trước có nhiu căn lành, nên mi có cm đến các h giúp cho được vãng sanh, và bo con cháu trong nhà vì người nim Pht lâu ngày đ truy tiến. Như thế chng nhng người chết được li ích, mà bao nhiêu k tr duyên cũng trng sâu căn lành. y mi gi là tht lòng thương xót, khác hơn tp quán mê lm ca người đi, khi thân nhân bt hnh lin sát sanh đ cúng tế, khiến cho vong linh k chết b câu tr nơi u đ. Vic ca Tôn phu nhân như thế là vn toàn, nhưng còn Thái phu nhân tui đã tám mươi ba, các h nên khuyên người sanh lòng tín nguyn nim Pht. Song vi người tui đã cao, s tu hành li đang  vào bước đu, năng lc ca thân và tâm đu kém yếu, s e không th nim được trn ngày. Trước kia, tôi mun đt ra pháp thc đ tr nim trong lúc hin tin cho nhng người như thế, nhưng nghĩ mãi chưa được. Mt hôm, nhân thy quan Trn Th Vương Duyt Sơn đem m và quyến thuc đông đo lên núi đ chiêm bái, tôi bng tìm được mt cách tr nim rt hay. Phương pháp y tôi đã lược thut cho Vương Trn Th, nay cũng xin vì các h t bày:

Quyến thuc ca các h, v phn nam đu có chc nghip riêng, v phn n như dâu, con gái cho đến k nhũ mu thì không vic chi cn yếu lm. Các h nên bo my ngườy thay nhau  bên Thái phu nhân, cao tiếng nim Pht mi phiên đ na gi. Mi ngày c luân phiên như thế đng cho tiếng nim h dt. Thái phu nhân có th nim theo vn tt, bng không ch khuyên người nhiếp tâm nghe k, thì cũng được thường không ri Pht. Nhng người tr nim chng my gì phí sc, bi mi ngày bt quá ch mt đôi phiên là nhiu, li gieo được nhân lành gii thoát na. Các h nên mượn phương pháp y đ làm tròn hiếu đo, dù Thái phu nhân th hơn trăm tui, cũng c gi tiếp tc y như thế, thì li ích không th nghĩ bàn. Và, khi gp nhng người có tín tâm mun thành tu s vãng sanh cho cha m, đu nên đem cách thc này ch bo. Các h mc rn ràng vì vic quc chánh, không th đnh thi nim giúp, nhưng nếu có lúc nào ri rnh, cũng nên nim mt phiên đ nêu gương, khiến cho con cháu tinh tn vui mng.

Theo ý tôi, làm như thế có nhiu tin li. Nên đem phương pháp này viết thành mt bài ph vào đon cui ca quyn Văn Sao, đ cho nhng người có lòng báo hiếu không đến đi lung than câu: “Mun tr ơn sâu, tri cao không cùng!”

 

32/ Thơ Đáp Cư Sĩ Hà Hu Chiếu

 

 

Được thơ, biết ngươi túc căn rt sâu, hin hnh li tinh thun nên mi có nhng cnh tượng l y. Nhưng người đi nay phn nhiu hay ưa danh vng, có được na phn mt phn, lin nói đến trăm ngàn muôn phn. Như trong quyn ký lc ca v cư sĩ n, nhng cnh gii ca y đu do t ý v vi ra khác hn vi s tht. Ngươi đã không nói di, nhưng e hoc khi có tp quán đó thì lm li rt nhiu! Đc Pht đem ti nói di lit vào trong năm gii căn bn, chính là đ phòng nga mi t y. Như v vic thường, không thy nghe nói thy nghe, ti hãy còn nh. Nếu c ý mun xây dng lâu các gia hư không, di nói nhng cnh gii nhim mu, chưa chng đc bo rng chng đc, tc là đi vng ng, ti này nng hơn giết, trm, dâm trăm ngàn muôn c ln. Người đã phm, nếu không hết sc sám hi, tt s b đa vào ngc A tỳ, vì li nóy làm cho chúng sanh nghi lm, có th phá hoi Pht pháp. Vy ngươi cn phi thn trng vi nhng cnh đã thy, ch nên nói thêm bt mt my ly. Nếu thêm bt tc là có li, vì bc tri thc chưa chng được tha tâm đo nhãn, ch dùng li nói làm bng c đ phán đoán mà thôi. Đem nhng cnh gii như thế t vi bc trí thc đ cu quyết trch s chơn, gi, chánh, tà, thì không li. Nếu không vì vic chng minh quyết trch, ý mun t khoe cũng có li. Li, ch nên t cùng bc tri thc cu xin chng minh, ngoài ra ch nên nói vi ai, nếu l bày thì có hi, vì v sau không còn được thy cnh giy na. Đây là điu quan h th nht ca người tu hành, mà trong Thai giáo thường nói đến. Cho nên người nim Pht đi nay phn nhiu hay b ma da, đu do dùng tâm vng đng mong được nhng cnh l thường. Đng nói cnh y là ma, dù có thng cnh, nếu sanh lòng vui mng tham trước cũng b tn hi, hung chi v tt qu tht là thng cnh ư? Nếu người có công hàm dưỡng, dt hn tâm vng đng, khi thy các cnh gii, không vui mng, tham trước, s hãi, nghi ng, thì dù gp ma cnh cũng được li ích, nói gì là cnh nhim mu? S dĩ được như thế, là bi không b ma chuyn nên có th tiến trin thêm. Nhng điu trên đây ta ít hay đem nói vi người, nay nhân vì ngươi có viy nên phi dn bày ch rõ.

Trước tiên, ngươi l Pht, bng thy tượng Quán Âm Đi sĩ hin ra là không đích xác. Nếu qu đúng cnh Pht thì không đến đi nhân khi suy nghĩ: “Tượng cùng Quán Kinh không hp”, lin hình. Nhưng do đó lòng tin ca ngươi càng tha thiết, thì cũng là nhân duyên tt. Song chng nên thường mun thy hình tượng, ch thành tâm l bái mà thôi. Như thế mi khi lo có s ri ro khác.

Khi ngươi sp ng, thy trước mt có ánh sáng trng và lúc l Pht, thy hình Pht đng lơ lng gia hư không, tuy thuc v cnh tt, song ch nên tham trước mong cu, vì nếu thế, v sau cnh y không còn hin na. Xem căn tánh ca ngươi dường như kiếp trước đã tng tu tp thin đnh, nên mi thường có nhng tướng y. Đi nhà Minh, ông Ngu Thun Hi tnh tu  núi Thiên Mc, ch t quan ca Cao Phong Diu Thin sư thu xưa, lâu ngày t biết vic quá kh v lai, hay nói trước nhng cơn mưa nng và s ha phước ca người. Liên Trì Đi sư nghe được viy, gi thơ cc lc bài xích, cho rng đó là lưới ma. Thun Hi tnh ng, qu nhiên v sau không còn đoán trước được na. Cho nên người hc đo phi đ tâm lo vic ln, nếu chng thế tt s b vic nh làm tn hi. Đng nói chi nhng cnh giy, dù cho được ngũ thông cũng phi gác b bên ngoài, mi có th chng ltn thông. Nếu mt b tham trước thì công phu khó tiến, hoc có khi thi lui, điu này cn phi biết.

Ngươi nm mơ thy vào đin Pht, nh hai câu kinh, cũng thuc v cnh lành. Song hai câu y nghĩa lý rt rõ ràng không chi khó. “Phn hư y giác l. Quy chơn ng thường không.” (B gi theo đường giác. V chơn ng thường không), là ý nói: Chúng sanh vì nhn lm s vt gia đi đu có tht, nên mi mê man xoay vn trong no luân hi. Nếu có th quán sát biết s vt đương th vn không, thì lin ra khi li mê, nương theo đường giác, tr v bn tánh, ng được lý tht tướng, chơn không, chơn thường. Hai câu y chưa th đâu, cũng có khi đó là câu văn đã ghi nh đi trước, chưa chc chính thc văn kinh. Mun phân bit ma cnh hay Thánh cnh, phi xét li cnh y xem có hp vi li dy trong kinh chăng? Và như qu là Thánh cnh, thì khiến cho người khi trông thy tâm lin thanh tnh, không vng đng chp trước; nếu là ma cnh thì tâm lin vng đng chp trước không được thanh tnh. Li na, quang minh ca Pht tuy sáng ngi song không làm xót con mt, nếu không đúng thế, tc là ma trá hình. Khi Pht hin, dùng lý: “các tướng hu vi, đu là gi di” mà gn, thì càng hin rõ. Nếu ma trá hin, dùng lý y xét gn thì lin hình. Đây là phương châm rt vng chc đ khán nghim s chơn gi vy. Ban đêm, ngươi thy ánh sáng trng và cnh trong ngi gia hư không đó là do tâm thanh tnh hin ra, đâu nên cho là tướng pháp gii tch chiếu không hai? Nếu nghĩ như thế là đem phàm lm Thánh, ti li chng ít. Người tu Tnh nghip như chng ly các cnh gii làm mong cu, thì cũng không có hin cnh chi nhiu. Nếu trong lòng chuyên mun thy cnh, tt cnh gii hin ra phc tp. Lúc y, như không khéo dng tâm, hoc có khi b tn hi, phi đ ý nh k điu này.

Pháp môn Tnh đ dùng Tín, Nguyn, Hnh làm tông. Có tín nguyn, không lun công hnh nhiu ít, cn sâu, đu được vãng sanh. Không tín nguyn, dù cho tu đến cnh quên c năng s, thoát hn căn trn, cũng khó hy vng được v Cc lc. Bi vì, nếu qu chng được tht lý ccnh y, có th dùng t lc đ thoát sanh t, thì không cn lun. Như ch có công phu dp tr vng chp t thy lý y, chưa được tht chng, tt nhiên khó vãng sanh khi thiếu Tín Nguyn. Nhà tham thin khi bàn lun Tnh đ, đu b tín nguyn đem v tông thin. Như y theo đó mà tu, cũng có th khai ng, nhưng nói đến s thoát sanh t, e cho mng tưởng không thành, bi vì chưa dt hoc nghip. Nên biết phàm phu được v Tnh đ, đu do lòng tín nguyn cm Pht, nên nương nh t lc, đi nghip vãng sanh. Nếu không phát tín nguyn, li dn câu nim Pht đem v t tâm, thì làm sao cm được Pht? Đo cng đã không hp, tt chúng sanh cùng Pht riêng cách, dùng môn hoành siêu làm pháp th xut, s li ích cn mà tn tht li sâu. Li ích, là tu y theo nhà Thinói, cũng có th t ng; tn tht, là b tín nguyn nên không được tiếp dn vãng sanh. Vì thế người chơn tht tu Tnh đ không dùng được li khai th ca nhà tu Thin, bi pháp môn và tông ch đu riêng khác.

Vy ngươi nên xét k li. Như chng cho li ta là phi, thì c thnh cu nơi bc đi thông gia, hoc may có th hp vi tâm chí ca ngươi. V viy, n Quang này vn không chp trước chi c.

 

33/ Thơ Đáp Cư Sĩ Úc Trí Lãng

 

 

V vic ca Phước Tun, nếu khi còn sng cho đến lúc chết, qu có nhng s thy theo li ngươi nói, thì quyết đnh được vãng sanh. Thu bình thi, Phước Tun đã nhn rõ sc thân là huyn, điy rt có li ích. Bi người n thường hay yêu mến thân gi di, ưa đua đòi theo s đim trang, nay đã không có niy, t nhiên đi vi môn Tnh đ d được tương ưng. Khi lâm chung gy yếu và bnh kh, đó là nghip chướng trong nhiu kiếp, do công siêng tu Tnh nghip nên phát hin đ chuyn hu báo làm hin báo, đi qu nng thành nh thế thôi. Ngươi bo: bi tu trì tinh tiến nên thân th ngày mt yếu gy, ly không đúng, li thêm có li khiến cho nhng người lòng tin cn ct nhân đó biếng tr s tu hành. Phi biết người nim Pht quyết đnh có th tiêu tr nghip chướng, nếu nghip hin, đó là đi ác báo s đa tam đ thành cơn bnh kh hin ti đ tr cho xong. Kinh Kim Cang nói: Người th trì kinh này do b khinh r nên dt được s kh nhiu kiếp trong tam đ. Thế thì nhân Phước Tun sp sanh Tây phương nên hin ra s kh nh y đ tiêu tr ác báo t vô lượng kiếp đến nay, tht là điu hân hnh rt ln. Ngươi ch nên hc theo nhng người kém hiu biết, cho rng: Nhân tu trì mà thành bnh ri chết. Người nim Pht thu bình thường có tín nguyn chơn thiết, không mt ai chng được vãng sanh. Phước Tun lúc lâm chung chánh nim rõ ràng, có nhng tướng trng hi han, đnh l, sau khi chết thân th mm du, sch s, nhan sc như sng, thì đâu nên nhìn vào công tu cn ct mà nghi ng? Theo li nguyn ca đc A Di Đà, chí tâm trong mười nim cũng được đ, hung chi Phước Tun tinh tiến tu trì đã ba năm, li còn nghi ngi gì? Duy nhng người ý chí thp kém, tuy thường nim Pht song chng cu vãng sanh, ch mong phước báo nhân thiên; hng y dù trót đi tu hành cũng ch hưởng được si phước nơi kiếp sau mà thôi. Nếu k có chánh tín, t biết dùng lòng tín nguyn cm Pht, quyết được sc t bi nhiếp th, đo cng thông nhau, s nương Pht lc đi nghip sanh v Cc lc. Thế thì cn chi hi thy Pht cùng không, mi có th phán đoán?

Người nim Pht trước khi lâm chung, như có th t tm gi thay y phc thì rt tt. Nếu không t làm được thì thôi, người ngoài quyết chng nên thay thế d b tm gi đi y phc, vì có th khiến cho k sp chết khó nhn s đau đn đến mt chánh nim. Ngươi ch vì vic Phước Tun chưa kp mc pháp y và ngi kiết già mà tiếc bun. Phi biết lúc y ch nên đng thanh nim Pht đ giúp sc, quyết không được bày v vic gì khác. Nếu mt mưa phô bày, tt thành ra cnh té giếng b đá rơi theo, rt có hi cho s vãng sanh. Điu này phi ghi nh k.

Lnh t tui cũng đã cao, nếu ta chng nói rõ s lm lc trên đây, e ln sau ngươi dùng lòng hiếu tho tr li làm ngi s vãng sanh ca m, khiến cho người nhiu kiếp b luân hi không được gii thoát. Vy ch nên trng s tht, ch khoe hình thc bên ngoài. Li ký lc ca ngươi, văn nghĩa xem cũng gn, không cn phi nh người viết thành bài đ truyn bá, vì đó cũng thuc v vic phù phiếm ca thế gian. Ngươi ch nên sách tn mình và quyến thuc c gng nim Pht, đ được đng sanh Tây phương là tt. Sm chiu trong hai thi khóa, ta cũng đc danh hiu ca Phước Tun hi hướng trong mt tht, đ cho trn nghĩa Thy trò. Phước Tun vãng sanh phen này, có th gi là chng sng suông chết ung, rt hân hnh! Đến như vic y theo li di chúc, ly xương tán mt làm hoàn đ thí cho loài thy tc, cũng là điu tt, nhưng lưu ý cn thn hơn. Phi đem xương nghin thành phn; dùng rây la nh rây lc, làm như bt nhuyn mi được. Nếu thô tháo nghin sơ qua, ri hòa vi bt làm hoàn, e cho loài cá nh ăn vào phi b nghn vướng. Ta s ngươi làm không k, nên ta phi dn trước.

 

34/ Thơ Đáp Mt V Cư Sĩ

 

 

Bnh cùng ma đu do túc nghip gây ra. Ngươi ch tha thiết chí thành nim Pht, t nhiên bnh s lành, ma cũng xa lánh. Nếu ngươi nim không chí thành, hoc khi nhng nim tà dâm bt chánh, thì tâm trng chìm trong cnh ti tăm, tt khó khi b ma qu khuy nhiu. Sau mi thi nim Pht, ngươi nên hi hướng cu cho tt c oan gia đi trước đu được nh công đy sanh v cõi lành. Ngoài ra, không nên nghĩ tưởng gì khác. Ma có la li khunhiu, ch kinh s; không khuy nhiu cũng chng được sanh tâm vui mng, ch nên chí thành khn thiết nim Pht mà thôi. Như thế t nhiên nghip chướng s ln tiêu và phước hu thêm ln.

Đến như s duyt kinh, ch nên bt chước theo thói t cu th không cung kính ca người đi nay, mà phi xem như Pht, T, Thánh hin giáng lâm, mi có tht ích. Ngươi gi được như thế, thì tm lòng s quang minh chánh đi, ma qu tà thn kia không còn ch dung thân. Nếu tâm ngươi trước đã tà vy, tt chiêu cm đến loài tà, đâu có th khiến được ma qu lánh xa không khuy nhiu.

V tha tâm thông, qu thn tuy có, song nh hp và cn gn. Nếu là bc nghip hết tình không, thì cõi lòng như gương sáng trên đài, muôn hình đu hin rõ. Ngươi không chí tâm nim Pht mà mun tìm hiu chân tướng ca viy, đâu biết đó là gieo ht ging ma! Như gương báu s dĩ có công năng chiếu sut xa gn, là vì t th nó trong sáng không vướng mt đim bi. Tm lòng ca ngươi b nghip hoc ngăn che, mà mun được công dng như thế, có khác nào như gương m li b bi lp, làm sao phát ánh sáng? Dù có, cũng là yêu quang, không phi ánh sáng chân tht.

Nhưng thôi, hãy gác viy li. Vi hin cnh ca ngươi, phi chí tâm nim Pht như b nn nước la, như cu cháy đu, thì tt c ma nghip đu tiêu.


35/ Thơ Đáp Cư Sĩ Châu Mnh Do (I - X)

 

I

 

T thân ca ngươi tui đã cao, đi vi pháp môn Tnh đ chưa có th nhn chân mà tu trì. Nên thường đem ni kh trong sáu no luân hi, s vui  cõi Cc lc và nhng l siêu thăng khó, sa đa rt d, ging nói cho người nghe. Nếu chng được v Tây phương, đng nói là  cõi người không đ trông cy, dù sanh lên cõi tri hưởng s vui v lâu dài, mt khi phước lc đã hết, vn tr li đa xung nhân gian và ba đường ác mà chu kh. Nếu không biết Pht pháp thì cũng đành vy, nay đã được hiu Pht pháp đâu nên đem s li ích ln lao y nhường cho người? Và đâu n t mình cam chu chìm ni mãi trong bin kh luân hi, không mong ngày gii thoát ư? Ngươi nên thường ging nói như thế, may ra có th khiến cho lnh t phát được căn lành đi trước, tin chu tu hành. B tát ra đi đ sanh đu thun theo cơ nghi, trước tùy s dc mà dt dn, sau khiến cho vào trí Pht. Nếu ngươi có th gng tu hiếu đo và đem pháp môn Tnh đ khuyên dn trong hàng quyến thuc cùng tt c người hu duyên, đ đng làm bn tt nơi Liên Trì, thì công đc ln lm?

 

II

 

Người đi khi có bnh hoc gp nhng s nguy him tai nn, thường thường không biết nim Pht làm lành, li lm lc mun cu cu vi qu thn. Do đó nên giết hi sanh mng gây thêm ti nghip, tht rt đáng thương! Bnh kh cùng nhng tai ha, phn nhiu đu do nghip đi trước gây ra; nếu nim Pht, sám hi, làm lành, thì ti chướng s tiêu, bnh được mau mnh. Loi qu thn kia chính h hãy còn  trong bin nghip, đâu có th khiến cho người tiêu nghip? Dù cho hng chánh thn có oai lc ln chăng na, oai ly so vi thn lc ca Pht, B tát chng khác chi la đom đóm sánh cùng ánh sáng mt tri! Người Pht t không chu nương ta Pht, B tát, tr li cu cu vi qu thn, đó là tà kiến.

Tt c chúng sanh đu là cha m đi quá kh và chư Pht đi v lai, nên thương xót h trì. Ch noi theo tp tc sai lm, mc ý giết hi, ri bo rng: phi cn có thc ngon bo đ phng dưỡng song thân mi là đo hiếu. Người chưa hiu Phpháp, không biết s lý luân hi, nên mê m lm lc chng nói làm chi. Nếu k đã nghe Pht pháp, mà còn giết hi cha m đi trước đ phng dưỡng cha m đi này và dùng huyết nhc làm nhu cu cho s tang tế, chng nhng không phi hiếu thun, li chính là ng nghch vy. Cho nên nhng bc thông đt, khi nghe được nghĩa chân tht ca đo Pht, đu không chu làm theo quyn pháp  đi, bi pháp quyn ty do chiu thun theo mê tình ca thế gian mà lp, không phi là đo lý thông sut nhân qu ba đi ca Như Lai. Nếu các người mun nhn thc sâu hơn, hãy xem nhng bài “gii sát” trong quyn Văn Sao ca ta s t rõ.

 

III

 

Người nim Pht khi có bnh, phi mt lòng đi chết, nếu th mng chưa dt, s được an lành. Vì khi buông c toàn thân mà nim Pht, thì nghichướng tiêu rt mau, nghip tiêu tt nhiên bnh được lành mnh. Nếu chng buông b muôn duyên, ch mong mau lành mnh, thng như bnh không hết, thì phn vãng sanh s phi mt, bi vì không có tâm nguyn cu sanh. Như không hiu rõ đo lý này, đâu có th nh t lc ca Pht tiếp dư? V bnh căn ca lnh t, các ngươi nên khuyên người buông b tt c đ cu vãng sanh. Như th mng chưa dt, thì cu vãng sanh trái li mau bình phc, vì do dùng tâm chí thành, nên được nh sc Pht gia b.

Ngươi nên đem ll trên đây mà khuyên nh t thân, đng hc theo thường tình, nói nhng điu không li ích.

 

IV

 

Tiếp được thơ, biết lnh t chưa tht phát tâm cu sanh Cc lc. Hin thi người còn đang trong cơn bnh, thôi hãy tm hoãn đng đ cp đến viy. Ch nên khuyên người chí thành nim Pht, đ được nh t lc gia b, khiến cho thân tâm an vui. Đi đến khi lnh t khe li ri, s dùng li l khéo léo dn gii rành r, làm cho người tht phát tâm cu sanh thì mi có li ích. Nh ngươi chuyn li cùng lnh t, nói ta thăm người được an lành. Và nên nói li rng: ta khuyên người buông c muôn duyên mt lòng nim Pht, đó là điu cn yếu đ t cu đ. Ngoài ra vic chi khác, đ phn con cháu lo, nếu còn nghĩ tưởng đến, tc là có hi cho công phu nim Pht ca mình vy.

 

V

 

 

Châu Qun Tranh xem rõ:

Lnh t hin đang có bnh, quyết không nên đi vng trong lúc người chưa lành. Nhưng ta xem tình trng, e người chng hưởng th được lâu. Vy phi dùng Mnh Do và Trí Chiêu mi ngày thay phiên nhau  bên giường bnh mà nim Pht, khiến cho người nim theo, nếu không th nim thì khuyên người yên lng lng nghe cũng được. Làm như thế, nếu lnh t th mng đã hết, quyết đnh s vãng sanh, như s phn chưa mãn, cũng được tiêu tr nghip chướng thêm ln căn lành.

V phn ngươi, nên đi ý đnh lên núi Ph Đà bng cách vâng theo li ta mà thc hành là tt hơn. Như thế mi lưỡng toàn không hi. Hin thi t thân ca ngươi bnh chưa mnh, rt không nên phát tâm nguyn xut gia, nếu phát thì đi vi đi và đo đu thành trái nghch. Ngườsp mng chung, như được tr nim, chc có phn vãng sanh; nếu thiếu tr nim, hoc dùng s khóc lóc làm phát đng nhng nim tình ái gin hn, thì khó khi đa lc. Điu này rt quan h, nguy him, nên nh k. Nếu ngươi có thành tu s vãng sanh cho m, đó cũng là chánh nhân Tnh nghip ca chư Pht trong ba đi. Và đó chính là làm Pht s gia trn lao, công đy sánh vi vic làm tm thường, muôn phn rng ln. Phi bàn tính vi Mnh Do, thc hành phương pháp tr nim, và khuyên lnh t nên nghe theo nhng li ca ta. Đến như vic vì m ging gii Pht pháp, vn là điu rt hay, nhưng s đnh tnh cùng an i cũng nên nhiu phn đ ý.

 

VI

 

Lnh t phát nguyn gi tin cho ta đ tùy ý làm các vic công đc và giúp phn loát b Văn Sao. Theo ý ta, làm vic công đc phi ly s m mang trí thc ca người làm điu cn yếu, nên ta đnh đem s tiy in quyn Quán Âm Tng đ ph biến khp xa gn. Vic này có mc đích khiến cho mi người được biết đc Quán Âm Đi sĩ là đng nương ta ca chúng sanh trong pháp gii. Đi sĩ tùy loi hin thân, tìm tiếng cu kh, và ph giúp đc A Di Đà tiếp dn người nim Pht sanh v Cc lc. Hin nay nhân loi đang  trong đường hon nn, không biết phương pháp chi phòng nga, nếu mi người được xem quyn sách y, s cm ân đc ca Đi sĩ, mun nh oai lc ca Ngài đ thoát khi tai ha. Và, mt khi đã phát tâm tín ngưỡng nương ta nơi Đi sĩ, tt s gi lòng t thin sa li làm lành, đ mong cho được cm thông vi Ngài mà nh s ch che giúp đ. Cõi đi chng yên, vì lòng người him ác, nếu mi người đu ngưỡng m đc t bi ca Đi sĩ thì thế gii ln ln chuyn ra cnh vui v thanh bình. Cho nên quyn sách này nếu được lưu thông, s li ích s vô cùng, sánh vi các loi sách hu ích tm thi, tht cách nhau rt xa. Hơn na lnh t cũng nương nh công đy, tiêu ti nghip, thêm phước hu, khi sng được an vui, lúc chết sanh v Cc lc. Đến như quyn Văn Sao, mi người xem ri phát tâm làm lành nim Pht rt nhiu,  đây không th nói hết.

 

VII

 

Lnh t vì sao bnh không được lành? Âu là do túc nghip gây ra, khiến đi qu nng thành nh, chuyn hu báo làm hin báo, đ tr cho xong tt c đó chăng? Thu xưa, Huyn Trang Pháp sư khi lâm chung cũng b chút ít bnh kh, Ngài nghi ng cho nhng kinh mình phiên dch hoc có ch sai lm. Đang khi suy nghĩ như thế, thot thy mt v B tát an i rng: “Do s kh nh này, ti báo kiếp trước ca ông đu được tiêu dit, ch đem lòng hoài nghi.” Vy ngươi hãy đem duyên s này an i lnh t, khuyên người nên vui mng, ch sanh lòng bun gin. Như thế, quyết đnh có th nh Pht gia b, th mng chưa dt s mau an lành, s phn đã mãn được sanh v Cc lc. Con người trong cơn bnh kh, nên tưởng thi lui mt bước, s thy an vui không cùng! Gn đây binh la liên miên, chúng ta may mn chưa gtai ny, dù b bnh kh còn có th nhân đó t thc tnh đ tìm đường gii thoát. Trong trường hy ch nên cm khích chuyên tu, t nhiên s được li ích. Thế chng hơn là oán tri trách người đ gây thêm ti nghip cho mình ư? Nên khuyên thân mu ngươi đng ôm lòng oán trách, gng đnh tâm nim Pht thì nghip tiêu mau như tuyết gp nước sôi.

Ta t khi tr v núi, mi ngày trong thi khóa tng đu có hi hướng cu nguyn Tam bo gia b cho lnh t, nếu th mng chưa dt, được mau an lành, như s phn đã mãn, sm sanh v Tnh đ.

 

VIII

 

Tiếp được thơ, biết lnh t đã nim Pht vãng sanh vào ngày mùng hai. Là đ t Pht, các ngươi phi y theo Pht pháp khiến cho thn thc ca t thân được li lc, chng nên quá bun thương, thành ra k còn người mt đu lung vô ích. Đến như vic tang tế phi dùng toàn đ chay, ch nên tùy theo tp tc. Dù có nhng người không hiu Pht pháp, bài xích nói là sai quy, cũng mc cho h chê cười. Trong đám táng không nên quá phô trương bày v, và làm Pht s ch nên nim Pht mà thôi. Anh em ngươi phi đc xut người nhà đu khn thiết nim Pht, thì thn thc ca lnh t, c trong gia quyến, cho đến bà con bè bn, s được s li ích, chân tht. Nếu tài lc có dư, cũng nên làm các điu công đc; như s đ dng va đ, ch lo xong vic táng là được. Ch nên làm quá long trng, đ ri sau phi thiếu thn là điu không hay.

 

IX

 

Được thơ, thy lnh t khi lâm chung rt tt. Đó âu cũng là s hiu nghim do căn lành bn nguyn ca người, và công tr nim ca anh em ngươi cùng trong quyếthuc. Thu bình sanh, con người có th che giu các vic, duy lúc sp chết quyết không th gi di. Lnh t đã không lòng ái luyến, có sc vui tươi ngi yên mà qua đi, nếu Tnh nghip chng thành thc, đâu được như thế ư? Mong anh em ngươi và toàn gia quyến nên nim Pht đ truy tiến. Như thế chng nhng thân mu các ngươi được li ích, mà công đc nim Pht ca chính mình li càng ln thêm. Đc Pht đã dy: “Khi tng kinh, trì chú, nim Pht hoc làm các công đc, nên hi hướng cho pháp gii chúng sanh.” Lúc bình thi còn vì chúng sanh không can thip chi đến mình mà hi hướng, hung chi m mt đâu n chng hết lòng nim Pht cu nguyn cho ngườư? Nếu có th vì chúng sanh hi hướng, tc là hp vi th nguyn B đ ca chư Pht, như đem mt git nước gieo vào bin thì git nướy đng s sâu rng như bin c. Như chưa được dung hp cùng bin, đng nói mt git nước, dù cho sông dài h rng, đi vi bin vn cách bit như đt vi tri. Thế thì, khi đem công đc hi thí cho cha m và tt c chúng sanh, chính là bi ci phước cho mình. Biết được nghĩa này, người hiếu tho lòng hiếu càng tăng thêm, k kém hiếu tâm cũng phát lòng tho thun.

Thnh chúng Tăng tng nim trong by tun tht, viy rt tt, nhưng khi đó anh em các ngươi cũng phi có người đng tng nim theo. Nhng ph n trong nhà bt tt phi theo th lp đng sau chư tăng mà tng nim, vì e lâu ngày thân thin nhau, s gây mi him nghi cho người ngoài. Hàng ph n nếu có tng nim, nên  sau màn hoc lp riêng mt ch khác, các ca ra vào hai bên đu không thy nhau. Đó là nêu khuôn phép và m thông nghi thc cho người trong hương p. Nếu th ơ không phân gii hn, k khác s bt chước theo, v sau sanh mi t. Cách lp pháp ca người xưa, dù bc thượng thượng cũng ly pháp thc ca k h h mà làm phm vi, nên không có s t hi. Nếu các ngươi có th y như thế vì m nim Pht, li kiêm n thí các quyn Quán Âm Tng, Văn Sao, thì chng nhng khiến cho t thân phm sen thêm cao, mà ông bà cho đến thân ph các ngươi cũng được đng nh pháp li, siêu sanh Cc lc. My điu ta nói vn căn c đúng theo tình lý, không phi là nhng li bông lông ct đ va lòng đp ý các ngươi đâu!

 

X

 

V phép ha táng, thu đi Đường, Tng, Pht pháp còn thnh, người ti gia phn nhiu cũng có dùng. Nhưng hin thi, nên theo thông tc mà chôn ct, vì e có chp nê sanh ra nhiu điu ngh lun. Tht ra thì thiêu hóa thi hài mau tiêu tan hơn, và qua bn mươi chín ngày thiêu hóa li càng n tin. Còn chôn ct, hoc khi lâu năm hài ct b bc l. Tang chế ba năm không làm l nhc, điy vn nên tuân gi. Đi nay luân thường hiếu đo b gác b mt bên, phép tc gi gìn trong kỳ tang chế còn đáng chi đ lun bàn? Tuy nhiên, cũng nên nương theo l giáo xưa châm chước mà làm, đng vi sa đi hoc quá nê chp. Cách dò thăm hơi nóng đ nhn đnh thn thc thác sanh v cõi nào, tht đáng y c. Nhưng ta s nhng k không biết, c mãi thăm dò, nên ý nói: “người đ tín nguyn, khi lâm chung chánh nim rõ ràng, thì có th vãng sanh, chng cn phi y theo mt l, ly s lnh nóng làm bng c.” Điu này cn nên đ ý, vì nếu c r thăm hơi nóng, e phát đng đến tâm luyến ái, gin hn ca người sp chết, làm cho hng mt s vãng sanh.

Nhng thuyết “thai sanh, nghi thành” trong Kinh Đi Bo Tích, nơi pháp hi ca đc Vô Lượng Th Như Lai nói, là ch cho người nim Pht đa vào li hi hn, nghi ng. Đây chính là ước theo nghĩa b ngăn che, cách ngi, mà lp tên “thai sanh, nghi thành”, vì b  trong hoa sen năm trăm năm không được thy Pht nghe pháp, ch đâu phi có s tht? Sao li c chp cht theo ch mà gii nghĩa, cho rng hng ngườy không thuc vào chín phm sen? Nên biế Tây phương không có thai sanh cũng không thành quách, đó là ước theo nghĩa: không được lin ra khi liên bào, b cách ngăn vi Pht, đ thí d cho thai và thành thế thôi? Bi ngươi chp đnh danh t nên mi cho là ngoài chín phm, nếu qu vy thì bc h trung cùng h h b ngăn cách sáu kiếp và mười hai kiếp thai và thành li càng dy đc biết bao nhiêu? Mười hai kiếp kia còn thuc v chín phm, hung na là ch có năm trăm năm đó ư? Sao ngươi không xem tiếp tám ch:  trong hoa sen không được xut hin...” hoa sen y không lit vào sen chín phm hay sao?

Pht pháp nghĩa rng vô cùng, nếu chp đnh thì không vic sanh vic, thành ra phí hết bút mc thôi. Đó đbi t mình đ chân vào trong thành nghi, thành y còn dy hơn ngc Thiết Vi na. Nếu hiu biết rõ ràng, t nhiên cõi đt lng chìm, ngc Thiết Vi tiêu tan mt c. Thy Mnh T nói: “Dùng ý nghch chí, đó gi là được”; ch nghch đây cũng là nghi thành. Nếu biết nghch tc là ý nghĩa nghinh hip, thì nghi thành s rã tan. Mt hng người vì c chp, nên tuy ging nói, trn ngày v trong vòng mâu thun. Đó là bi căn bnh chp trước chưa tiêu, thành ra khó được s li ích thiết thc.


36/ Thơ Đáp Cư Sĩ Cu Bi Khanh (I - II)

 

 

I

 

S nóng gin như thế là do tp tánh t kiếp trước. Nay các h đã biết nó ch vô ích, li thêm có hi, thì đi vi tt c vic trái ý đu nên dùng đ lượng rng rãi như tri bin mà bao dung. Đó là phương pháp dùng lòng qung đi đ chuyn biến tánh hp hòi. Nếu không đi tr thì tp tánh gin hn càng ngày càng tăng thêm, s tai hi không phi ít.

Đến như nim Pht, phi tùy nơi tinh thn sc khe ca mình mà nim ra tiếng ln, nh, nim thm, hoc nim theo li Kim Cang (ch s đng môi, nim có tiếng nhưng người ngoài không nghe được), sao li quá dùng sc đ cho mang bnh ư? Tâm quá mãnh liy cũng còn li dc tc đó! Nay đã không nim ra tiếng được, cũng có th nim thm trong tâm, sao li ch hn có mười nim? V li, khi bnh nm nơi giường, tm lòng đâu th vng lng như hư không, nếu tưởng nghĩ vic khác, thôi thà tt hơn là chí tâm nim Pht! Nên đem vic cn yếu giao phó cho người nhà, thường tưởng rng mình sp chết, sp đa Đa ngc, trong lòng tuyt không vướng vít mt điu gì. Ri dùng tâm thanh tnh y tưởng nh tượng Pht, thm nim danh hiu, và kiêm tưởng nim Thánh tượng cùng danh hiu đc Quán Âm. Qu được như thế, quyết đnh nghip chướng s tiêu tr, căn lành thêm ln, tt bnh mau thuyên và thân tâm yên n. Căn bnh ca các h vn thuc v túc nghip, bi duyên nim Pht mãnh lit nên phát hin, không phi hoàn toàn do quá dùng sc mà có ra. Gi s không gp nhân duyên nim Pht quá sy, nó cũng s phát hin bng mt nhân duyên khác. Gia đi, người không nim Pht rt nhiu, đâu phi tt c đu không đau yếu, sut đi mnh khe đó ư? Hiu rõ điu này, s chng còn nhn lm cho rng nim Pht thành bnh, kết cuc ch có tn hi không được li ích.

n Quang cùng các h chưa gp mt nhau ln nào mà có nhng li thành tht chí thiết hôm nay vì xem các h như người thân thuc. Bi k tu hành vn th theo lòng t bi ca Pht, mun cho người hu duyên đu được vãng sanh ngay trong hin đi. Pháp môn nim Pht, nếu các h chưa tường tt, mi ngày nên xem qua vài thiên Văn Sao đ làm s dn đo cho đường tu. Thế mi không ung mt phen tri ng nhau trong thơ t qua li.

 

II

 

Các h đã tin nơi tôi, nên làm y theo li tôi mi có tht ích. Chng thế thì tuy có tín tâm, ch gieo nhân lành v sau mà thôi. Chúng ta  trong vòng sng chết luân hi tri qua nhiu kiếp, gây nên nghip ác vô lượng vô biên. Nếu ch nương sc tu trì ca mình, mong dt hết phin não, hoc nghip đ thoát no luân hi, viy còn khó hơn lên tri. Như có th tin pháp môn Tnh đ ca đc Pht ch dy, dùng lòng tín nguyn chơn thiết nim danh hiu Pht A Di Đà cu sanh Tây phương, thì không lun nghip lc ln, nh, đu được nương nh t lc vãng sanh Cc lc. Ví như mt ht cát nh đ vào nước lin chìm, trái li, tng đá dù nng ngàn muôn cân, được ch trên chiếc thuyn to, cũng có th đem đi nơi khác. Tng đá là d cho nghip lc sâu nng ca chúng sanh, thuyn to là d cho t lc rng ln ca đc A Di Đà. Nếu không nim Pht, ch nương sc tu trì ca mình đ thoát sanh t, phi đi đến đa v nghip dt tình không mi được. Chng thế thì dù có dt được phin hoc ch còn như mt si tơ, cũng không th gii thoát. Đó là d cho ht cát tuy rt nh, nếu không có vt gì ch, khi đ vào nước tt phi b chìm. Các h nên sanh lòng tin, nim Pht cu sanh v Tây phương đng khi nhng tư tưởng gì khác. Qu được như thế, thì tui th chưa hết bnh s mau lành, vì công đc chí thành nim Pht, có th dt tr ác nghip đi trước, như vng hng đã hin, sương tuyết lin tan. Nếu s phn đã mãn, tt được vãng sanh, vì do tâm nim chuyên nht nên đo cng giao thông, nh Pht xót thương tiếp dn. Như các h tin hiu thu đáo nhng li trên đây, thì sng cũng được nhiu an vui, chết cũng được li ích ln.

Lòng nóng gin là tp tánh t kiếp trước, mun đi tr, nên tưởng như mình đã chết. Thế thì mc ai bôi hương thoa l, nơi ta nào có can gì? Dù gp nhng cnh trái lòng đến đâu na, cũng c tưởng rng mình đã chết, t nhiên tánh gin hn không th ni lên. Đây là món “cam l pháp thy” ca đc Như Lai truyn dy, đ ra hết kết nghip ca tt c chúng sanh. Nay tôi vì các h thut li, không phi t tôi đt đic thuyết. Nếu không nim Pht cu v Tây phương, tuy sanh lên ch cc tôn quí như tri Phi Phi Tưởng, khi phước báo đã hết, vn b luân chuyn trong sáu đường. Như dùng hết lòng thành khn nim Pht, dù sp đa vào Đa ngc A tỳ, cũng có th nh Pht tiếp dn. Vy muôn ln xin ch t coi là thp kém, cho rng mình nghip nng e không được vãng sanh. Nếu c gi quan niy thì quyết đnh chng được sanh Tây phương, vì bi thiếu s tín nguyn chơn thiết nên không do đâu đ cm đến Pht.

Quán Thế Âm B tát thành Pht đã t lâu, ch vì lòng t bi sâu thiết nên hin thân trong chín pháp gii, dùng đ phương tin đ đ thoát chúng sanh. (Chín pháp gii: B tát, Duyên giác, Thanh văn, Tri, Người, A tu la, Súc sanh, Ng qu, Đa ngc). Riêng v pháp gii cõi người, B tát li hin nhiu thân sai khác, hoc làm vua, quan, hoc làm thường dân n dt, hoc làm ph n, hoc làm k ăn xin... không nht đnh. V chân tượng ca B tát tt đp nhim mu, người đi không th hình dung được, nên khi v ra phn nhiu ging vi người n, ch chng phi B tát nguyên là n thân. Nếu mun cúng dường, nên đến đường Bc Kinh, xóm Trường Khang, ch lưu thông Kinh Pht, thnh bc tượng Tây phương Tam Thánh th bn đá, mua khung kính đem lng vào. Như thế là vn toàn, vì có đ đc Pht A Di Đà, Quán Âm và Thế Chí. Nơi phòng ng nếu không được tinh khiết, nên đem tượng Pht th  tnh tht, mi ngày qua ly và chiêm ngưỡng mt đôi ln, thì trong tâm có th ghi nh!

Nim Pht tuy quí  s thanh khiết, nhưng vi người bnh có nhiu điu không thun tin, ch đem hết lòng thành nim thm hoc ra tiếng, công đc cũng đng nhau. Vì đc Pht vn rng lòng thương xót, như cha m đi vi con. Khi con có bnh không đem nhng nghi thc bình thường qu trách, mà còn xoa r thân th gi ra ch hôi nhơ. Nếu khi con bnh đã mnh, mà còn bt cha m hu h như khi đau yếu, đó là trái phép, tri đt s không dung. Vy các h không nên cho rng nm nơi giường bnh nim Pht thm là có ti li. Người mnh khe khi nm ngh còn nên nim thm, hung chi là người bnh ư?

 

37/ Thơ Khuyên Dy Mt V Tỳ Kheo Ni

 

 

Đêm ngày thm thot, mùa tiết đi di, thi gian chuyn biến âm thm, không giây phút nào dng ngh! Có phi to vt hin ra tướng lưỡi rng dài, din nói pháp mu, cho chúng sanh nhn thy kiếp người vô thường, vinh hoa gi tm, mau tìm đường gii thoát đ khi b trm luân đó ư? Ngươi đã chán mùi phú quí, tìm hc đo mu, phi gng sc chuyên tu, ch nên ln la qua ngày, vì mng người ch mong manh trong hơi th. Nên xét t thân tuy là ngũ chướng, song tâm tánh vn đ ba đc Niết bàn, mà c ra sch tp tánh người n và chuyên trì Thánh hiu đc A Di Đà. Thường tưởng nghĩ cõi Ta bà rt nên nhơ ác, min Cc lc chính là chn gia hương, ch mong phước báo hin ti hoc đi sau, ch nguyn khi mng chung được v Cc lc. Nếu sm chiu tha thiết, mi nim không ri, nim đến công sc thun thc, t nhiên đo cng thông nhau, khi lâm chung chs được toi nguyn. Lúc đã v Tnh đ, t ng lý Vô sanh ri, nhìn li cõi Ta bà, thy s vinh hin giàu sang chng khác nào ánh nng, hoa không và ngc tù, bin đc! Nhưng mun đt chí nguyn, điu cn yếu là trước phi dt tr tp nhim mi d thành tu s vãng sanh. Kinh Pht thường nói: “Người giàu sang khó hc đo, người n cũng khó hc đo.” Bi người giàu sang phn nhiu hay quen tánh kiêu mn, xa xí, ít chu nhún nhường đ xét sa mình và tiếp đãi người. Như thế, đâu d dt mi âu lo, xóa tan trnim, đ cõi lòng vng mà cu đư? Người n thì ưa sa son dung nghi, thường đem lòng đ k, đâu biết rng dù cho hương tri sc nước, vn là túi phn đy nhơ; đã luyến huyn hình, làm sao ng đo? Đc Như Lai vì tr nhng chng bnh y, ch dy phép quán T Nim X, quán thân không sch, th là kh, tâm vô thường và pháp vô ngã. Nếu thành tu phép quán này, thì lòng tp nhim luyến sc thân, cy quyn thế, s tiêu dit như đim tuyết gia lò hng.

Ngươi du là người n dòng trâm anh đi xut gia, cn phi tr sch tp tánh kiêu xa, trang đim, khiến cho không còn my may nào, v sau mi có phn thoát kh. Hin nay chánh pháp suy yếu, ma ngoi tung hoành, khó gp được Thy hay bn tt, phi tìm Thy bn trong gương mu ca người xưa. Nên đc k nhng quyn: Tỳ Kheo Ni Truyn, Thin N Nhơn Truyn, Tnh Đ Thp Yếu, Tnh Đ Thánh Hin Lc, mi tìm được nhng tm gương sáng, không còn s lc vào đường tà. Gn đây tăng ni ít bc thanh tu, phn nhiu là k không đúng phép, chng nên lm thâu đ chúng, đ tránh s hư ri trong đo Pht. Li gi mình theo thanh quy, gng sc tu Tnh nghip, làm sao cho khi sng thành người khuôn mu, lúc thác d hi Liên Trì. Như thế mi không ph chí vượt ra hm la muôn tm, mi chng ung làm con ca Pht.

Phi cương quyết c gng, ch quên li ta!

 

38/ Thơ Đáp Cư Sĩ Phm C Nông

 

Trung m tc là thn thc, ch không phi thn thc hóa làm trung m thân. Đây chính là linh hn mà người thế tc đã thường gi. Cái thuyết trung m thân by ngày sng chết mt ln và qua bn mươi chín ngày phi đi đu thai, không nên nê chp. Nói trung m thân sng chết là ch cho trong tâm vô minh ca k kia hin ra tướng sanh dit, đng nên quá quê tht, lun theo trng thái sng chết ca người đi.

S th sanh ca thân trung m nơi sáu đường ba cõi, mau thì chng trong khong khy ngón tay, lâu hoc bn mươi chín ngày hay nhiu hơn không nht đnh. Nhng vong mi chết có th hin thân trước người quen thuc, hoc cùng tiếp xúc nói chuyn trong ban ngày hay ban đêm. Không phi ch riêng trung m thân mi được như thế, mà người đã sanh v cõi d, lành, đôi khi cũng có th hin hình cho bà con quen thuc thy. Đây tuy là ý nim ca ngườy hin ra, song kỳ tht cơ quyn biến do to hóa thn kỳ sp đt, đ t cho đi biết: người chết hn chng tan mt và qu báo lành d vn không sai. Nếu chng thế thì k dương gian không th biết được vic âm ty, ri do đó nhng tà lun mù quáng ph ha ni lên, bo rng chết là mt, không có nhân qu, đi sau, khiến cho người lành không gng công tu đc, k ác li càng hung him tung hoành. Thế thì dù có li Pht dy, ly đâu đ chng minh, và ai chu tin nhn? Cho nên các s hin hình y đã chng cho li Pht không sai, nhân qu có tht, người lành thy thế càng làm lành, mà k d cũng b tình lý đó chiết phc, không đến ni mười phn quyết lit. Tri đt qu thn mun cho người đi biết rõ viy; nên mi có nhng s người chết hin hình nơi dương gian, k dương gian x đoán hình pht dưới âm ph, đ ph dc Pht pháp và giúp đo tr an. Lúc này rt nhim mu và s quan h cũng rt ln. Nhng vic như thế, xưa nay sách v chép cũng nhiu, song đu chưa nói rõ cơ quyn biếy do t đâu, và có nhng gì quan h li ích?

Linh hn tuy lìa xác thân, nhưng vn còn có tình chp v xác thân y như cũ. Đã có tình chy, tt phi cn dùng đến s ăn mc đ tư dưỡng. S dĩ như thế, vì phàm phu nghip chướng sâu nng, chng biết ngũ un vn không, nên vn cùng người đi không khác. Nếu là bc đi trí hu, thì lin thoát th không còn nương ta vào đâu, các s kh tiêu dit, ngũ un rng không, muôn đc trn bày, chơn thân hin l. Cnh gii ca thân trung m d đng không nht đnh, nên s th hưởng đu tùy theo tình chp ca mi người. Như vic đt giy áo, đi vi người sng duy có quan nim cp cho áo, còn s rng hp vdài, đâu có th mi mi đu phù hp. Nhưng do nơi tình chp ca người sng và k chết, nên nhng qun áo y vn va vn như thường. Điu này có th ch cho ta biết đi nghĩa: “Tt c các pháp đu do tâm chuyn biến.”

Người chết ri, khi còn chưa th sanh trong sáu đường gi là trung m thân. Nếu th sanh thì chng còn là trung m thân, và s da vào người mà nói vic kh vui, đu là tác dng ca thn thc. S đu thai tt do thn thc cùng tinh huyết cha m hòa hp, nên lúc người đàn bà có mang, thì thn thc đã có trong thai. Nhưng ti sao đôi khi người m chuyn bng, thy có k đi vào nhà ri mi sanh? Đây là trường hp lúc cha m giao cu, có linh hn khác đến thay thế đ th thai, đến khi cái thai đã thành, vong chánh mi đến, vong thay thế lin đi. Trong b “Dc Hi Hi Cung” quyn th ba, trang 8, 9, 10, 11, 12 cũng có nghi vn này mà nguyên đáp không đúng lý; tôi xin vì ci chánh, sau các h nên tìm tra li s rõ. Nguyên đáp trong y đưa ra t d như vy: “Ví như trng gà, có trng có trng, có trng không trng...” Không khi nào thn thc vào thai mà ging như trng gà không trng. Bi trng không trng là trng hư, không th n ra con, còn trường hp trên, người m vn sanh con như thường. Nay tôi ly lý đ bin minh, không s mang li tiếm vit, nên vì các h trình bày. Thu xưa, bà m ca ông Viên Trch mang thai ba năm, có l cũng thuc v tình trng thay thế đã nói trên. Nhưng đây là ước theo li thông thường mà lun, phi biết nghip lc ca chúng sanh không th nghĩ bàn! Như người tu Tnh nghip đã thành, thân tuy chưa chết mà thn thc đã hin nơi Tnh đ. Và k nghip ác nng, thân còn nm trên giường bnh mà linh hn đã chu hình pht dưới cõi u minh. Thế thì mng tuy chưa dt, thn thc đã đu thai, đi đến khi sp sanh, toàn phn tâm thc mi ph vào thai th, lý này chng phi là không có, nhưng thông thường, s thay thế th thai vn nhiu hơn.

Trong ba cõi, các pháp đu duy tâm hin. Chúng sanh tuy mê chng biết, nhưng chính ch nghip lc không th nghĩ bàn y, là ch tâm lc không th nghĩ bàn, mà cũng là ch thn thông đo lc ca chư Pht không th nghĩ bàn vy. n Quang tôi, hơn mười năm gn đây, vì sc mt yếu không xem nhiu được, nên không th rng dn kinh lun đ chng minh. Tuy nhiên, lý y vn chân tht, chng phi tôi dám đưa ra đic kiến, đ rước ly s ti khiên. Sng chết là vic ln ca chúng sanh, nhân qu là đi quyn trong cơ giáo hóa. Mong rng các h không tiếc li văn qung trường thit, mt phen đem vic nhân qu báo ng giúp cho mi người đu chuyn phin não sanh t thành B đ Niết bàn. Như thế pháp môn cùng chúng sanh xiết bao hân hnh!!

 

39/ Thơ Khuyên Người Mi Phát Tâm Hc Pht

 

 

1. Tôi thường nói: Mun được s tht ích ca Pht pháp, phi tìm nơi lòng kính s. Có mt phn cung kính, tiêu mt phn tnghip, thêm mt phn phước hu. Có mười phn cung kính, tiêu mười phn ti nghip, thêm mười phn phước hu. Nếu không my may cung kính, thì s tng kinh nim Pht tuy chng phi hoàn toàn không li ích, nhưng do ti khinh ly, trước phi b nhiu kiếp đa vào tam đ. Đến khi ti hết, mi nương thân nơi nhân lành y, li được nghe pháp tu hành, ăn chay nim Pht, cu v Tây phương đ thoát đường sanh t? Nếu hin đi này hết lòng thành kính, thì hin đi có th nương sc t ca Pht đi nghip vãng sanh. Và mt phen được vãng sanh, thì vượt phàm vào Thánh, thoát khi luân hi, hng xa lìa các s kh, ch thun hưởng nhng điu vui.

 

2. Con người tu phước và to nghip, tóm li chng qua ba nghip sáu căn. Sáu căn là: mt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Năm căn trước thuc v thân nghip, mt ý căn sau thuc v tâm, tc là ý nghip. Ba nghip là nghip thân, khu, và ý.

Thân nghip có ba: sát sanh, trm cp, tà dâm. Ba vic này ti rt nng, người hc Pht phi đ tâm gìn gi. V phn sát sanh: phàm là đng vt, tt đu biết tham sng s chết, ta không nên giết hi, nếu giết mà ăn tht thì s kết thành nghip sát, đi sau phi b nó giết li. Vy người Pht t nên ăn chay và yêu tiếc sanh mng. V phn trm cp: chng lun vt ln nh ca người khác, ta không nên ly khi người không cho. Trm vt nh thì mt nhân cách mình, trm vt ln thì hi thân mng người. Trm đ vt người xem dường như có li, nhưng tht ra chính mình b gim phước th, có khi mt tánh mng, so vi ca trm được, s tn tht li càng nhihơn bi phn. Nếu dùng mưu kế ly, hoc dùng thế lc ép bc ly, hay thm lén mà ly, đu thuc v trm cp. Người trm cp, tt sanh con lưu đãng, trái li k liêm khiết thì sanh con hin lương, đây là nhân qu nht đnh theo lý thiên nhiên vy. V phn tà dâm: nếu chng phi thê thiếp ca mình, thì không lun k sang hèn, đu không được cùng nhau làm điu tà dâm. Tà dâm là vic trái ngược nhơn luân, chính là đem thân người mà làm hnh Súc sanh, hin đi đã như thế, kiếp sau khó khi đa vào súc loi. Người đi cho vic con gái lang ch là điu s h, nhưng đâu nghĩ rng con trai tà dâm nào có khác chi? K tà dâm tt sanh con không trinh khiết, có ai li mun cho con cái mình không trinh khiếưy cũng bi chính mình trước đã làm vic đó, con cái th bkhí cht ca mình, quyết khó được trinh chánh. Li na, chng nhng không được dâm theo ngoi sc, mà v chng chung ch vi nhau cũng phi có hn chế; nếu chng thế thì con người d b suy tàn hoc phi chết non. K tham vic phòng tht rt khó sanh con, dù sanh cũng khó nên người, và dù cho được nên người cũng là k yếu đui không thành tu vic chi. Tình đi cho hành dâm là vui, đâu biết vui trong giây phút, kh đến trn đi, có khi còn di hi cho con cháu na! Ba điu trên đây không làm thì thân nghilành, làm thì thân nghip ác.

Khu nghip có bn: nói di, nói trau chut, nói đôi chiu, nói hung ác. Nói di là nói li không thành tht, li đã không thành tht thì tâm cũng không thành tht, do đó nhân cách b tn tht rt nhiu. Nói trau chut là nói li phù phiếm hoa tình, khiến cho người sanh ra tâm nim dâm đãng. Nhng thanh thiếu niên còn non di nghe ly lâu, nếu không tà dâm cho mt nhân cách, thì cũng làm vic th dâm đ hi sc thân. K nói li có hi cho người như thế, dù không tà dâm cũng phi b đa vào đi Đa ngc, t trong Đa ngc ra, hoc làm ging cái trong loài súc vt. Nếu sanh trong loài người, s làm hng gái lu xanh, ban sơ còn tui tr sc đp cũng chưa my kh, ln ln nc đc phong tình phát ra, s kh s s không cùng. Đã có ming khéo nói năng, sao chng vì người ch đường hnh phúc, li tht chi nhng li tà vy trau chut đ gây ha cho chính mình và k khác ư? Nói đôi chiu là nói khiêu khích thc mách s phi quy ca đôi bên, nh thì lm lc người, ln thì hư nhà hi nước. Nói hung ác là nói li ác đc như gươm đao, khiến cho người khó nhn chu sanh ra bun kh. Bn điu này không làm thì khu nghip lành, làm thì khu nghip ác.

Ý nghip có ba: tham dc, gin hn và ngu si. Tham dc là đi vi tin tài, rung đt, đ vt v.v... đu mun cho v nơi mình, dù được nhiu vn còn thy ít. Gin hn là: không lun mình phi hay quy, nếu có ai không thun theo bn ý, lin phát sanh gin d, dù k khác dùng l phi khuyên bo cũng chng nghe theo. Ngu si là chng phi tuyt nhiên không biết vic chi. Chính như k đc hết sách thế gian, văn t qua mt lin thông thuc, ming m thành thi bài, mà không tin lý nhân qu ba đi cùng s luân hi sáu no, cho rng người chết thì mt, không có đi sau v.v... đu gi là ngu si. Nhng s hiu biết như thế làm cho hư nước hi dân còn quá hơn nn nước lt, thú d. Ba điu này không làm thì ý nghip lành, làm thì ý nghip ác. Người ba nghip thân, khu, ý đu lành, khi tng kinh nim Pht, công đc ln hơn k ba nghip ác gp trăm ngàn ln.

 

3. Người hc Pht cn phi gi lòng tt, nói li tt và làm vic tt. Gi lòng tt là không nên khi nhng tâm nim ác, trái chánh lý, có hi cho mình và người. Nếu tâm niy thot ni lên, phi lp tc sanh lòng h thn sám hi, khiến cho nó lin tiêu dit. Li phi gi gìn nhng tâm nim: hiếu, đ, trung, tín, l, nghĩa, liêm, s, có li vt li người. Đi vi điu lành, sc mình có th làm được vic chi, nên thiết tht mà làm; nếu không làm được thì cũng nên thường tâm nim. Nói li tt là nói li có ích cho người và vt, ch không phi nói xu ph ct đ cho người vui v va lòng là li tt đâu. Đây chính là nói nhng li răn dy con cái, khuyên người làm lành, lánh d, gi trn nhơn luân, gng tu phước hu. Làm vic tt là phi tht hành vic hiếu tho cha m, cung kính sư trưởng, hòa thun anh em, khuyến hóa mi người. Và vi nhng vic l sám, nim Pht, tng kinh, thân tâm phi chí thành cung kính.

 

4. Người hc Pht, ban đêm không nên  trn, mc qun đùi mà ng. Vì mt Pht t lúc nào cũng phi gìn lòng như đi trước Pht. Đến ba cơm không nên ăn quá đ, thc ăn dù ngon, hp ming cũng ch nên ăn tám chín phn mà thôi. Nếu ăn đ mười phn thì k khác b thiếu, mà tng ph mình cũng th thương. Phước đc ca phàm phu đâu có bao nhiêu, nếu thường ăn như thế, th lc phi gim. V li khi ăn quá nhiu, thân tâm m mt, nếu thc phm không tiêu, tt ra hơi dưới. Vic này rt không thanh nhã, ti li rt to. Như s đt hương  đin Pht chng qua là đ tiêu biu lòng cung kính, xét li mùi thơm đâu có bao nhiêu? Nếu ăn quá no đ cho ra hơi dưới... mùi hôi thúi xông đến Tam bo, thì đi sau tt phi b qu báo làm loài dòi. Vy mun tránh ly, tt hơn là nên ăn cho có điu đ. Thng như bao t yếu b chng hàn, món ăn khó tiêu, cm thy mun ra hơi dưới, thì nên bước ra ngoài, đến ch trng cho ra, đi khi hơi tan li đi vào trong. Nếu có vic không ra ngoài được, thì phi dùng sc nén li, giây phút hơi s tiêu tan  trong bng. Có k cho rng làm như thế e sanh ra bnh, li này không nên nghe theo, vì nếu gi mt chút v sinh không đáng vào đâu mà đ cho ra hơi dưới nơi đin Pht, nhà Tăng, thì kh báo ca tli còn nng gp hơn muôn phn. Trong gii lut ca Pht chế, chưa nói đến vic này, có l người xưa thân th mnh khe, không tham ăn, chng có điu bt nhã y, nên Pht chưa nói, nếu như có, tt Pht đã nói ra ri! Vy ch cho rng Pht không chế gii ngăn cm điy, mà tùy ý cho ra hơi dưới. Làm như thế là t rước ly s đa lc, chng y Pht mun cu đ cũng không biết làm sao? Thu xưa đc Khng T ly tư cách bc Thánh nhân đến chu v quc quân phàm phu, khi còn  dưới thm sp mun bước vào triu, đã nén nh hơi th, hung chi lúc đi trước mt vua? Cho nên, sách Lun Ng nói: “So vt áo bước lên đn, thân mình cúi xung, nh hơi dường như không th.”Chúng ta là phàm phu đy nghip lc, đang lúc  nơi đin Pht, mt đng tri trong hàng tri, Thánh trong hàng Thánh, là ch Tam bo đy đ mà không đ tâm thúc lim, mc ý cho ra hơi hôi thúi nơi dưới, ti ly ln biết chng bao? Xin ch cho rng tôi nói ra đây vic không thanh nhã, tôi chng ngi gì mang tiếng không thanh nhã, ch s cho nhng k thô sut lm gây ra nhân đa lc làm loài dòi ta đó thôi.

 

5. Người hc Pht, sm mai thc dy và sau khi đi tiu tin đu phi ra tay. Khi dùng tay gãi nơi thân, chà dưới chân cùng r các ch không sch khác, đu cũng phi ra. Dù tháng nóng nc, cũng không nên t do m nút áo đ phơi ngc hoc vén qun bày bp vế. Tùy tin khc đàm h mũi là mt vic rt tn phước. Chng nhng  trong Pht đin, Tăng đường, không được h nh, mà bên ngoài đin đường ch đt sch s cũng không nên làm viy, vì nơi đt sch mà b khc nh, thì lin hin ra tướng dơ. Có người thô tháo không kiêng dè, c h nh ba trong phòng, trên đt, nơi tường, thành ra trong nhà ch nào cũng có đàm dãi. K y cho rng khc đàm là được thông tr và b cht nhơ ra ngoài, nhưng không dè mi ngày thường nh như thế thì bao nhiêu tinh hoa ca cht ăn ung đu biến thành đàm, nhiu ngày s sanh ra bnh. Trong thân người có gì tinh sch, tt hơn là nên nut đi, lâu ngày s không còn đàm na. Đây là phương pháp dùng đàm tr đàm rt thn diu. Nếu không nut được thì nên nh vào khăn tay, phi hành đng cho khéo đng đ người thy. Nhưng vic này cũng nhc công và không sch, chng bng nut đi, đã không nhc nhn li không bày ra s nhơ nhp; hơn na còn dt được bnh đàm. Vài điu trên đây, dường như không đáng nói, có k li cho rng nh nht không my đ tâm. Nhưng người hc Pht phi gi tư cách l nghi và biết s ti, nếu chng thế thì thành ra k thô tháo s sàng, hin đi phước gim ti thêm, kiếp sau phi b đa lc.

 

6. Người hc Pht, mt c đng đu phi lưu tâm. Trong khi nim Pht, cn phi chí thành, nếu có lúc thy nơi lòng sanh ra bi cm đó là tướng căn lành phát hin. Tuy nhiên, cũng cn phi dè dt, đng đ cho ngun bi cm thường thường phát l, nếu chng thế tt s b loài ma bi thương nhp vào. Phàm có vic chi va ý cũng không nên quá vui mng, vui mng quá đ s b loài ma hoan h ám nhp. Khi nim Pht, mí mt phsp xung và không nên quá dùng tinh thn khiến cho tâm ha bng lên. Nhng lúc cm thy trên đnh đu tê rn nga nhc, đó là hin tượng dùng tinh thn chuyên chú nhiu, cn phi điu đ cho va chng. Khi nim ra tiếng, không nên dùng sc lm, phi ngs mang bnh. Ln chui mà nim có th tr chng biếng tr, nhưng khi ngi yên không nên ln, ln thì tay đng tâm thn mi nhc không an, lâu ngày tt mang bnh.

 

7. Người hc Pht, khi xem kinh lun và các sách v, chng nên quá vi vàng, vi vàng thì tâm thn ri lon không yên, rt khó hiu được ý thú. Đi nay, nhiu người có đôi chút thông minh, khi được mt b kinh sách lin quên ăn b ng, xem mt ln cho hết. Qua đến ln th hai thì không còn hng thú xem na, dù có xem cũng như trng thái ph phc mt thn. Hng người này khó làm thành tu vic chi, vy phi gng răn gi. Ông Tô Đông Pha nói: “Sách xưa chng chán trăm ln đc. Đc k suy cùng ý v sâu!” Đc Khng T là bc Thánh nhân, mà còn đc Kinh Dch nhiu phen, đến ni dây sách ba ln mòn đt. Tư cht như Ngài, văn t qua mt lin thông thuc, ti sao li cn phi xem văn mà đc? Nên biết xem văn có ch rt hay, bi đc thuc lòng phn nhiu là s làu thông ngoài ming, xem văn thì d biết ý thú mi ch mi câu. Vy chúng ta ly đó làm gương, đng mt mưa đc thuc lòng đ t ra mình là người thông minh nh gii...

 

40/ Thơ Đáp Cư Sĩ Châu Tng Nghiêu

(Ph Nguyên Thơ)

 

 

Nay đ t có mt nghi vn, cu xin lão Pháp sư t bi ch bo:

Đ t ăn chay nim Pht đã nhiu năm, nghe dy rng: Nhng người tin tưởng Pht, s được chư Pht trong mười phương ba đi h nim, các v Thiên Long Bát B, Đi Lc Thn Vương thường theo h trì, nghip ác đi trước ln ln tiêu tr, dù có oan gia đi đu cũng không th làm hi. My điu trên đây căn c trong Kinh Pht, quyết không phi là li nói suông. Nhưng vào khong tháng ba này, nhân tiếp được tin tc ca người bà con t Thượng Hi gi v, khiến đ t vô cùng ngc nhiên! Theo tin y cho biết: Bà Trương Thái Thái là người rt tin Pht, ăn chay đã hơn hai mươi năm, thường đến Cư Sĩ Lâm nghe ging kinh pháp. Bà y hin hu nhân đc, ưa làm lành, gp ai cũng đu khuyên ăn chay nim Pht. Không ng mt hôm đang đi trên l đ đem đ ăn chay cho mt v sư huynh, bà b xe cán chết. Lúc y vì không có ai nhìn, nên nhân viên tun phòng ch đi, đến ba ngày sau con cháu hay được mi xin đem v chôn ct. Đ t nghe tin y trong lòng kinh ngc phi thường, đến nay vn còn nghi ng chưa hiu. Vic này nếu người trong Pht hc hi nghe được, chc cũng bàng hoàng không an. Cho nên đ t dâng lên bc thơ này, cu xin lão Pháp sư ch dy, nói rõ nguyên do vì sao bà h Trương li b cái chết thm khc như thế. Và kết cuc, bà có được vãng sanh v Tây phương hay chăng?

Xin lão Pháp sư m li minh hun đ cho nhiu người yên tâm nim Pht. Ân đy đ t cm bi không cùng!

Tiếp được thơ, biết ngươi đi vi đo lý Pht pháp còn chưa hiu rõ. Chúng ta t vô th đến nay, đã to nghip ác vô lượng vô biên! Kinh Hoa Nghiêm nói: “Gi s nghip ác có th tướng, mười phương hư không chng dung cha hết.” Nên biết s tu trì ca hành nhơn, nếu qu chí thành không di, thì có th chuyn trng báo, hu báo thành hin báo, khinh báo. Người phàm mt tht ch thy s kiết hung trước mt, đâu biết được vic nhân qu đi trước và đi sau.

Bà h Trương y nhiu năm tinh tu, mt sm chết thm, hoc gi do s kh đó mà tiêu được ác báo tam đ, sanh v cõi Thiên. Nếu trong hin đi bà tin sâu nguyn thiết thì cũng có th sanh v Tây phương. Nhưng chúng ta đã không có tha tâm đo nhãn, nên không dám c đoán quyết chc bà có được vãng sanh cùng chăng? Vic có th quyết đnh là: làm lành tt được qu lành, làm d phi mang ác báo. Nếu làm lành mà b qu d, đó là qu báo ca nghip ác đi trước, chng phi qu báo ca nghip lành đi này. Các ngươi thy bà lão b s chết kh như thế, lin nghĩ lm rng vic lành không đáng làm, bi làm lành không được phước, nên mi s hãi nghi ng. S nhn thc đó đâu có khác gì người chưa nghe hiu Pht pháp? Nếu người đã tin chc li ca Pht, quyết không vì viy mà l ra v sng st kinh hoàng. Bi vic nhân qu trùng đip không cùng, có khi nhân này chưa tr, qu n đã chín mùi, ví như gieo ging sm thì gt sm, li như thiếu n, ch n mnh lôi kéo trước tiên.

Thu xưa, có người mt đi làm lành, khi lâm chung li b chết thm đ tr xong nghip trước, đi sau li được phú quí vinh hoa. Như đi Tng mt v Tăng  chùa A Dc Vương mun trùng tu tòa đin tháp th Xá Li nghĩ rng Cn Thân Vương có thế lc, mi đến quyên m. Chng dè kết qu s tin quyên không được bao nhiêu, bn nguyn không thành, v Tăng bun bã, ly búa cht tay trước đn Xá Li, máu ra nhiu lin chết. Cùng trong lúc y, Cn Thân Vương sanh ra mt đa con. T khi mi lt lòng, đa bé thường khóc mãi không thôi. Bà vú bế nó đi chơi, đến ch treo bn đ xây tháp Xá Li thì đa bé không khóc, bng đi li khóc to lên. Bà vú không biết làm sao, mi g bn đ xung thường cm đ trước mt nó, t đó đa bé không khóc na. Vương nghe chuyy ly làm l lin sai người đến chùa A Dc hi thăm v Tăng khi trước, mi hay ông cht tay chết đúng vào ngày sanh ca con mình. Do nhân duyên đó, Thân Vương mt mình đng ra sa li đin Xá Li. Đến khi đa bé y được hai mươi tui, nhm lúc vua Ninh Tông băng, không có Thái t kế v, mi di chiếu lp con ca Cn Thân Vương lên làm vua. Cu bé v sau được làm Hoàng Đế bn mươi mt năm, tc là vua Lý Tông nhà Tng vy.

Cái chết ca v Tăng cũng là cái chết thm. Nếu không có s khóc mãi chng thôi và khi thy bn đ tháp Xá Li lin nín lng, thì đâu ai biết được đa bé là thân sau ca v Tăng đã chết thm kia? Vic này chép  tp A Dc Vương Sơn Chí, mà trong năm Quang T th hai mươi mt, tôi nhân đi l tháp Xá Li vài mươi ngày, đã được xem qua. Người rõ lý mc dù cnh ng thế nào, cũng quyết không nghi nhân qu sai lm, li Pht hư di. K không rõ lý, chp cht mt khuôn kh, chng biết có nhân qu phc tp, cho nên sanh lòng nghi nan, truy ra đu do không có chánh kiến. Như ch ngươi nói: người nim Pht có Tam bo gia b, long thiên h trì, đó vn là l nht đnh không còn sai lm. Nhưng đi vi vic chuyn qu báo nng đi sau thành qu báo nh đi này, ngươi còn chưa rõ biết, nên không khi có s nghi ng bàn bc không hp lý kia. Thu xưa,  Tây Vc, Gii Hin Lun Sư là bc đo đc cao trong mt thi, tiếng đn vang khp bn x Thiên Trúc. Do vì túc nghip, Lun Sư mang chng bnh d, đau đn vô cùng, chu không kham, nên sp mun t tn. Va trong đêm y, Lun Sư nm mơ thy ba v B tát: Văn Thù, Ph Hin, Quán Thế Âm giáng lâm bo rng: “Ngươi trong kiếp v trước, nhiu đi làm v quc vương, bi não hi chúng sanh, nên s phi b lâu dài đa vào ác đo. Nhưng do đi nay ngươi có công hong dương Pht pháp nên chuyn li chu s kh nh  nhân gian đ tiêu tr s kh ln nhiu kiếp nơi Đa ngc. Vy ngươi gng nhn chu, ch nên bun ru mà tính vic chi khác. Trong ba năm na,  x Đi Đường có v Tăng tên Huyn Trang, s đến đây th pháp vi ngươi.” Gii Hin Lun Sư nghe ri lin rán chu kh sám hi lâu ngày bnh ln ln thuyên gim. Qua ba năm sau, Huyn Trang đến chùa Na Lan Đà, Gii Công bo đ t nói trng thái bnh kh ca mình, chính người thut li cũng nghn ngào rơi l. Bao nhiêu đó cũng đ biết s kh y là dường nào ri! Nếu ba v B tát không nói rõ nhân duyên kiếp trước, người đi s bo Ngài Gii Hin chng phi là bc đo đc cao Tăng. Hoc có k li cho rng: mt v đi tu hành mà còn b chng bnh thm thế y, thì Pht pháp có chi là linh nghim?

Tóm li, ch hiu biết ca các ngươi còn cn, nên va thy vic chi hơi khác lin sanh lòng kinh nghi. Hành vi y có th khiến cho k ít căn lành thi tht lòng đo. Nếu thy người làm ác mà hin đi được phước báo, chc các ngươi cũng khi nim hiu lm như thế. Nên biết đó chng qua là s chuyn biến ca nhng lp tin nhân hu qu phc tp không đng, đ đi qu nng đi sau làm qu nh hin ti, hay chuyn qu nh hin ti thành qu nng đi sau mà thôi.

 

41/ Thơ Đáp Cư Sĩ Dương Đc Quan

 

 

V vic ông Hoàng Hu Giác, hin tượng y rt có li ích cho người hc Pht. S kết qu được vãng sanh hay b đa lc ca ông, hãy tm gác qua mt bên; nếu qu người nim Pht biết đến hin tượng ca ông lúc lâm chung, quyết không dám hng h vi con đường gii thoát.

Xem qua thành tích, dường như ông là người có tâm chí thành. Nhưng nhìn vào cnh tượng hira lúc lâm chung, ta xét thy lúc bình thi ông chưa tht tâm dng công trong s tu nim. Hin tượng y phn nhiu là do nhng nghip bn sn tin ca hoc li nói lm hi mng người xui khiến ra. (Bn sn li nói lm hi mng người là như mình biết ch kia có gic và biết nơi khác có th trn lánh được, mà vì không lòng t bi, ưa thy người mang ha, nên không chu nói ra. Tâm hnh y làm xúc đng s hn gin ca qu thn, nên khiến cho khi lâm chung hin ra cnh tượng: nói không được và ghét nghe tiếng nim Pht). Li na, s hin ra tướng trng mt đôi gi trăn tr không chu chết, đ đi đến khi nhng người tr nim đi ri, chưa bao lâu lin chết, hoàn toàn hp vi cnh nghip ca k bn sn tin ca cùng li nói lm hi mng người. Trng thái y chng t dù không đa vào loài Ng qu, cũng là khí phn ca Ng qu. Mt v nào đó căn c nơi sc tr nim bng chú lc ca cư sĩ Dic T Tun bo rng ông Giác được vãng sanh, song theo ý tôi: chú lc tuy không th nghĩ bàn, nhưng nếu nghip lc nng cũng không d gì được li ích. Nếu như ông Giác được vãng sanh, tt phi có tướng trng gì khác đ chng tht, vy cũng không nên c đoán sai lm. Có v li qu quyết rng, ông y đã đa vào đường Ng qu. Theo như hin tượng ca ông Giác, thì li nói sau này t h có ch y c. Nhưng hoc nh con cháu thành khn và các cư sĩ tr nim, hoc do chính ông y sám hi trong tâm, có th ti ca ông được gim khinh, không đến ni đa ngay vào đường Ng qu.

Hin thi, vic đáng làm là con cái cùng quyến thuc ca người quá vãng phi nghĩ đến s kh ca vong nhân, phát lòng li mình li người thay vì k chết nim Pht, cu Pht thương xót tiếp dn vãng sanh. Nếu lòng thành khn được đến cùng thì s vãng sanh có th d đoán, bi l cha con thiên tánh quan h ln nhau, và tâm Pht có cm tt ling. Như người trong quyến thuc lơ lơ láo láo làm cho xong vic thì vong nhân nghip chướng không tiêu và khó mong được tiếp dn. Điu này quan h phi thường vì sai mt ly lc đi ngàn dm.

Vic trên đây nhc nh cho ta biết người niPht đi vi mình phi thiết tht sa tr tâm tánh xu xa, vi người phi dùng phương tin giúp đ. Nhng điu đáng nói, tuy k cùng ta có oán thù cũng phi vì h nói, khiến cho k y sanh phước khi ha, lìa kh được vui. Lúc bình thi phi khăng khăng thiết thiết vì người nói vic luân hi nhân qu, nim Pht vãng sanh. Li nên dy d con cái, vì nó lp nn tng vng chc an lành. Phi gi làm sao cho li nói không mơ h, tâm như dây cung thng, vic làm không trái l tri, tm lòng có th phô trương cùng thn qu. Được như thế thì khi lâm chung quyết không có hin tượng đáng thương xót kia. Và như thế thì ông Hoàng Hu Giác li chính là bc Thy khuyên dn ca các người nim Pht; các v nh ông mi được s li ích ln v sau, mà ông cũng nh tâm lc ccác v, được hết ti, sanh v Cc lc. n Quang tôi nói đây chng phi là li bông lông, chính là mt đnh lut không h sai suyn. Như có ai chng cho là phi, thì xin cht chánh vi bc cao minh Pháp sư, hoc thnh vn nơi bc thn thông đThánh...

 

42/ Thơ Đáp Cư Sĩ Pht Đin

 

 

Tiếp được thơ, biết cư sĩ tng nim tinh cn, lòng tôi rt vui đp!

Nhng bóng đen theo cư sĩ nói, chng phi là bóng chư Pht, B tát, cũng chng phi hình nh k oan gia đi đu. Vì nếu Pht, B tát hin thân, tt pht rõ có th trông thy mt mày; còn nếu là k oan gia thì nó s hin ra tướng ghê gm đáng s. My bóng y có l là nhng cô hn hu duyên t kiếp trước, mun nh sc tng kinh nim Pht ca cư sĩ đ siêu sanh v cõi an lành. Vy sau thi khóa tng hi hướng, cư sĩ nên cu nguyn luôn cho các vong y được tiêu tr ác nghip, thêm ln căn lành, nh sc t ca Pht vãng sanh v Tây phương. Như thế, các vong kia s được li ích, không lung ung mt phen kh s mong cu.

Người tu hành tâm phi có ch t, khi thy cnh gii xu không nên s hãi, thy cnh gii tt cũng không nên vui mng. Được như thế thì các cnh gii tri qua đu là nhng thng duyên tr đo. Nếu tâm không ch đnh thì các cnh đu là chướng duyên. Li, người tu hành phi ly s cung kính chí thành làm gc, ly t bi khiêm tn làm lòng. Như thế thì dù tâm hnh chưa được hoàn toàn cùng Pht hp nhau, cũng không đến ni trái vi tâm hnh ca Pht, có th gi là người chơn tu, là đ t Pht.

 

43/ Thơ Đáp Cư Sĩ Hoàng Tng Bình

 

 

Bnh do thân sanh, thân do nghip sanh, mun cho bnh mau lành, các h nên tha thiết sám hi đ tiêu tr túc nghip. Vi vic phòng tht, cũng phi t răn cm thì bnh mi khi tăng thêm. Bt lun bnh gì, nếu không răn cha s v chng chung ch, tt nhiên khó đượlành.

Hàng ngoi đo rt nhiu có đến trăm ngàn phái, nhưng cách dng công ca h đu không ngoài vic vn khí luyn đơn. Bên ngoi đo dù có bo người xem kinh nim Pht, cũng là vic b ngoài, chính h cũng không cho đó là đo. Khi truyn giáo, các ngoi đo thường la vào lúc ban đêm, đóng kín các ca ln ca s, bên ngoài phái người qua li canh tun, ch đ mt người th giáo vào tht. Trước khi được đim đo, người th giáo phi phát li th rt đc đa thm ác. Nếu k nào trái vi li dy bo ca h, s phi chu kết qu ca li th y. Khi phát th ri, h li ch khiếu đim huyt ho đu,  mt,  thân. Nhng huyt nơi thân cn phi ci áo mi ch đim được. Vic làm như thế tht là mt bc sáo đ mê hoc người. H li thêm rng mt phen truyn qua, không tu cũng có th đc qu. Gi s b hn nhng vic ch đim bí mt cùng phát li th, mà đem công b rõ ràng ra cho mi người t do la chn, tt hng y không còn căn c đng vng. Trong Pht pháp không có vic bí mt truyn lén nhau, cũng không dy người phát li th đc ác, k nào tin thì theo, không tin thì thôi.

Các h đã nim Pht mà còn s lc vào ngoi đo, y cũng bi chính mình không phân minh s tà chánh gia đôi bên, ch bt chước theo người phát sanh tín tâm, tht ra chưa có lòng tin chân tht. Nếu có lòng tin chân tht thì ch gng sc tu trì, cn gì phi lo ngoi đo đông nhiu và s mình đi lc li? Các h đã t nhn có nhiu túc nghip nên mang bnh d, thế thì cn phi ăn chay nim Pht và vì nhng oan gia đi trước mà làm vic siêu đ. Nói siêu đ đây, cũng không cn phi thnh Tăng chúng làm Pht s, ch t mình thành tht khn thiết nim Pht và nim Quán Âm mà thôi. Các h ch nên nghĩ rng; ch nim mt đc Pht, mt v B tát s e không lành bnh. Nên biết nim Pht là pháp rt tròn mau thng tt trong Pht pháp, s li ích vượt hơn tt c pháp môn. Nếu có sai bit là do tâm mình chí thành cùng không chí thành, chng phi pháp có linh nghim hoc không linh nghim.

 

44/ Thơ Đáp Cư Sĩ Trch Phm

 

 

Hàng ph nhân khi sanh sn, nên nim Quán Thế Âm B tát, vì đc Quán Âm tâm cu kh rt ân cn. Lúc y phi ra tiếng nim to lên, không nên nim thm, vì nim thm năng lc đã yếu, s cm thông cũng kém. Hơn na, trong khi dùng sc cho đa con ra, nếu nim thm tt phi tn hơi mang bnh. Chng nhng sn ph t mình nim ln, mà nhng người giúp đ trong phòng sanh cũng nim to lên. Và hàng quyến thuc tuy  nơi nhà, song cũng phi vì sn ph nim danh hiu B tát cu nguyn giúp.

Rt không nên cho rng: khi sanh sn lõa l không sch, nim s có ti. Nên biết, lý tuy hu đnh, nhưng s phi tùy cơ, ch căn c theo s mà lun lý, chng nên chp riêng bên lý đ lun bàn. Ví như khi con cái té vào hm phn hoc nơi nước, la, kêu cha m cu cu, cha m lin chy ti kéo lên, không khi nào ngi rng con mình thân th chng sch, áo mũ không chnh t, mà không chu cu vt đ mc cho nó chết. Lòng t bi ca B tát còn thâm thiết hơn cha m đi vi con vô lượng muôn ngàn ln. Đang lúc chúng sanh b kh, cu cu, B tát ch có nim cu kh, tuyt không có nim so chp v thân hình. V li vic sanh sn dĩ nhiên phi như thế, là lúc quan h đến mng căn, không thuc vào trường hp có th t bày s nghiêm kính sch s, thế thì còn chp chi s nghiêm sch cùng không? Nế trường hp làm đượmà không làm, thì tht là có ti. Trái li, trong cnh ng không th t bày tướng cung kính, thì ch nên lun s quy hướng, chí thành nơi tâm, không nên chp nhng l mo nghi thc trên hình tích. B tát không s kh nào chng cu vt, không tai nn nào chng giúp đ xót thương, đâu có lý đi vi hàng sn ph mà b sót ư? Dù trong kinh không nói rõ v vic này, ta cũng phi c theo lý suy hiu tâm cu kh, đ dt s kh nn ln cho nhân sanh, và làm tha mãn lòng t bi ca B tát. Hung chi trong Kinh DượSư, Pht đã tng bo người n nên nim danh hiu đc Dược Sư Như Lai trong khi sanh sư? Kinh văn y nói: “Hoc có người n đang khi sanh sn chu nhiu s kh, nếu có th chí tâm xưng danh ly khen cung kính cúng dường đc Như Lai kia, (xưng danh thì sn ph có th làm được, còn ly khen cung kính cúng dường là thuc v vic người thân quyến làm thay thế) thì các s kh đu tr. Đa con sanh ra thân phn đy đ, hình sc đoan chính, li căn thông minh, an n ít bnh, người trông thy đu vui mng, sn ph không b loài phi nhân cướp đot tinh khí...” Thế thì biết, khi sanh sn nim danh hiu Pht, B tát chng nhng không ti, mà m con được an toàn, đã gieo trng căn lành, li có li ích ln. Nim Pht Dược Sư đã như thế, thì nim Quán Thế Âm B tát cũng như vy. Hàng sn ph nim đã được li ích như trên, thì các người khác suy ra có th biết.

 tnh H Nam, v chng cư sĩ Mã Thun Khanh và năm người con đu là đ t quy y ca tôi. Năm Dân Quc th 18, Mã có gi thơ cho tôi thưa rng: v y sanh năm đa con gái, khi sanh hai ln trước còn bình an, đến ln th ba thì b huyết băng; ln th tư, th năm li càng nhiu hơn na. Nay người v li sp sanh, thng như có huyết băng, chc là khó sng, cu xin tôi ch bày phương pháp cu tế và vì đa tr còn trong thai d đt pháp danh. Tôi lin bo v chng phi chí thành nim Quán Thế Âm B tát, dù khi sanh sn lõa l không sch cũng vn c nim, li phi nim ra tiếng không nên nim thm. Khi thơ tôi gi đến, v chng xem ri vâng li, người v qua ngày sau thì sanh, khi sanh cũng vn nim, rt cuc m con đu được mnh khe bình yên. Sau khi v sanh, Mã lin hi âm cho tôi biết; s kết qu tt đp ngoài ý đnh, B tát tht là đng đi t đi bi.

Li, mt đ t quy y ca tôi, vài năm trướ tnh T Xuyên, nhân đến thăm người bn, nghe trong nhà có đàn bà rên khóc bi thương, lin hi duyên c. Người bn t tht v y chuyn bng mun sanh đã hai ngày mà sanh không được, s e khó sng. Đ t tôi bo: “Nên khuyên ch mau nim Thánh hiu Quán Âm, còn anh phi lp bàn trước nhà, đt hương quì nim cu B tát cu đ.” Người bn nht nht y theo li. Kết qu, trong giây phút v y sanh được, khi sanh cũng không t biết, đến chng nghe tiếng đa tr khóc mi hay mình đã sanh. Sau khi y, sn ph thut li rng: “Lúc tôi musanh, thy có người dùng vi nt cht dưới h th nên sanh không được. Đến khi nim Thánh hiu Quán Âm thì thy miếng vi sút ra, đa bé lt lòng hi nào không t biết.”

Thế thì biết, người n khi sanh sn nim Quán Thế Âm B tát tht có li ích vô cùng. Vì đang lúc y, hoc do trong mình đã đau yếu sn, hoc do oan gia đi trước theo ám hi, sn ph  vào hoàn cnh thp t nht sanh; nếu không tha thiết chí thành cu B tát cu đ, tt m con khó được an toàn. n Quang tôi, t mùa thu năm Dân Quc th 15 tr đi, khi b Tăng Qun Văn Sao đã in ri, bt lun văn t gì, đu không gi bn tho đ khi s hao tn v n phí. Gn đây, nhân biết rõ cái t chp nht ca ph nhân trong khi sanh sn, nên tôi thường đem vic li hy nói vi tt c mi người, mong cho kia đây truyn nhau, đ d cu s kh s cùng tánh mng ca sn ph và sanh nhi. Nếu có ai không lượng xét, cho rng tôi ưa nói vic đàn bà sanh sn, riêng tôi cũng không ly chi làm ngi, ch mong cho mi người đu sanh lòng chánh tín, b s c chp, được khi tai ha mà thôi.

 

45/ Đáp 20 Câu Hi Ca Cư Sĩ Khúc Thiên Dương

 

 

1. Hi: Đ t tin đo Pht, nguyên nhân do nghiên cu thut thôi miên. Thu trước, đ t nghe li tc nói: “Tu tri chín kiếp, tu Pht mười đi”, hng nghĩ rng mười đi quá lâu xa, e na chng l d mà ung phí công trước. Nếu sm biết nim Pht mt đi được gii thoát, thì đ t đã tht hành lâu ri. Nay nhìn li mình đã hai mươi by tui, nghĩ t hi phát tâm tr mun!

Đáp: Li tc ng y do nhng k không hiu Pht pháp nói sai. Người hiu Pht pháp không bao gi tht ra ly. Nim Pht mt đi được gii thoát là do lòng tin sâu nguyn thiết, quyết đnh cu khi lâm chung sanh v Tây phương, nên nh sc Pht tiếp dn lên ngôi Bt thi. Nếu không nh Pht lc mà mun thoát sanh t, e cho ngàn muôn kiếp cũng không được, hung na là mười đi!

 

2. Hi: Theo ch đ t tin hiu: “Có tnh tâm mi thành Pht”, cũng như người hc thôi miên trước phi trm tnh ri sau mi có nhng hin tượng không th nghĩ bàn?

Đáp: Dùng tâm thanh tnh nim Pht quán Pht thì d cùng Pht tương ưng. Nếu thêm vào đó lòng tín nguyn chơn thit, tt s được vãng sanh, ri ln lượt tiến tu cho đến khi thành Pht. Đng hiu lm rng, đi nay tnh tâm, lin được thành Pht.

 

3. Hi: V s nương nh sc Pht, theo ch hiu ca đ t; như nhà thôi miên t thôi miên ly mình, so li khó hơn đ cho người khác thôi miên. T lc không bng tha lc có phi ging như thế chăng?

Đáp: Tt c pháp môn khác đu nương nh sc mình đ dt hoc chng chơn, như người què chân t đi, mi ngày khó được trăm dm. Pháp môn Tnh đ nương sc t ca Pht, nên có th đi nghip vãng sanh, như người què kia nương theo luân bo ca Chuyn Luân Thánh Vương, mt ngày đi khp bn châu thiên h. Đem vic thôi miên đ so sánh chng minh rt không hp lý.

 

4. Hi: Ming nim Pht, tâm tưởng Pht, s tưởng y có đng vi pháp quán th tám trong Quán Kinh chăng?

Đáp: Ch nên tha thiết nh Pht thôi. Còn v quán tưởng nên y theo pháp quán th mười ba mà dng công. Nhưng cnh Pht tinh tế, tâm phàm thô phù, s e quán khó thành tu, có khi dng tâm không đúng, li khi ra các vic ma.

 

5. Hi: Như lúc nguy cp, không th trong mt lúc gm tng các thn chú, vy nên ng dng phương pháp gì?

Đáp: Gp tai nn rt nguy cp, ch nên nim Thánh hiu Quán Thế Âm. Như thế đã đ phí tâm lc li cng rt l làng.

 

6. Hi: Chuyên nim danh Pht, hiu lc so vi s trì chú thế nào?

Đáp: Pht hiu cùng chú công đc đng nhau, duy cn phi chí thành mi được cm cách. Nếu trong tâm trước có mt nim xem khinh hiu Pht, tt không được s li ích chân tht. Ly do tâm không chí thiết và nghi ng.

 

7. Hi: Pht Di Đà t tánh, cõi Tnh đ duy tâm cùng vi cõi tnh và Ph Tây phương là hai hay mt?

Đáp: Có Tnh đ duy tâm mi sanh v Tây phương Tnh đ. Nếu tâm mình không tnh thì đâu có th vãng sanh. Dù cho k ti nghch ác dùng mười nim được vãng sanh cũng phi do tnh tâm nim Pht mi cm sanh v cõi tnh phương Tây. Người đi phn nhiu cho rng: đã duy tâm thì không Tnh đ. Đó là s hiu biết ca hàng ma ngoi. Th tà kiến t phi mà quy chiếm hơn phân na, khiến cho người nim Pht không được tht ích.

Do đc Di Đà t tánh, nên hành gi cn phi nim Pht Di Đà Tây phương cu được vãng sanh, đ ln lượt tiến tu thân chng Pht Di Đà t tánh. Nếu ch chp riêng Pht Di Đà t tánh mà không nim đc Di Đà Tây phương, dù cho được chân tht t ng cũng chưa th thoát ngay đường sanh t, hung chi k tht ra ly phn nhiu là hng t th nói suông ư?

Đến như vn đ đng d: Mt mà hai là trước khi chưa thành Pht, hai mà mt là sau khi đã thành Pht.

 

8. Hi: Câu “Sanh thì quyết đnh sanh, v thì tht không v là ý gì?

Đáp: “Sanh thì quyết đnh sanh” là nói ước v s“v thì tht không v” là nói ước v lý. Nhưng, k chưa thông s lý, ch nên y theo s tướng mà nim Pht cho già gin là được. Chng thế thì thành ra li chp lý b s ca hàng ma ngoi.

 

9. Hi: Có người nim Pht khi lâm chung bng nói: “Cõi Tnh đ  ti góc sân trước nhà.” Thế thì cõi này tc là Tnh đ chăng?

Đáp: Đó chính là cnh phát hin ca duy tâm Tnh đ. Nhưng Tnh đ duy tâm ca người kia là cnh gii riêng ca k y, ngoài ra đu là duy tâm uế đ. Vy đâu nên căn c theo ch thy riêng ca mt người mà quyết đoán.

 

10. Hi: Tng kinh có phi đ cho chính mình vui theo mùi đo, chán vic hng trn, hay có tác dng gì khác?

Đáp: Ngươi tng kinh ch biết cu s vui riêng cho mình. Rt tiếc vô biên nghĩa mu nhim b ngươi xem không đáng giá mt đng tin!

 

11. Hi: “Hiu nghĩa th nht” là ý nói gì?

Đáp: “Hiu nghĩa th nhtõ là ng sut lý mu tht tướng, t tánh duy tâm.

 

12. Hi: Pht dy tu quán chính là lp giáo cho chúng sanh b s kh bc bách trong đi ngũ trược v sau. Nếu y theo thuyết phát hin thiên nhãn thông ca thut thôi miên, thì mun thy cõi Cc lc cũng không phi là vic khó. Thế thì thut thôi miên cũng là mt nhu yếu trong s nim Pht, ti sao nhiu v bo tu quán là khó, không mun khuyên mi người tht hành?

Đáp: Thôi miên ch là năng lc nh ca huyn thut, đâu phi chính tht thiên nhãn thông? Nhng v qu thcó thiên nhãn đâu chu vì người làm công vic thôi miên? Nay ngươi đã hc Pht, ch nên chuyên chí hc Pht. Mun hin hin cõi Cc lc, nên duy tâm tnh thì trong mt nim s thy. Ví như lau gương, lau cho cùng cc t nhiên phát quang. Nếu dùng thut thôi miên mun hin hin, thì t tâm trước đã không tnh, nim cũng không quy nht, ví như đem phn trng thoa trên gương mun được phát ánh sáng, không ng li làm cho gương ti thêm.

 

13. Hi: Tu quán pháp là quán, là tưởng, hay dng c quán tưởng. Và quán tưởng nên ly cnh gn hay xa?

Đáp: Hai ch quán tưởng đâu nên chia làm hai, nhiếp tâm mà tưởng tc là quán. Ngươi cho là hai thì thành ra ch biết có mt cái mười mà không biết hai cái năm. Li quán tưởng đâu nên phân bit xa gn!

 

14. Hi: Tu môn quán ban đu, nên nht tâm tưởng mt tri hay cn phi mc trì danh hiu?

Đáp: Quán cùng trì danh vn là mt vic. Ngươi cho rng khi quán tưởng thì không th trì danh và không nên trì danh ư?

 

15. Hi: Lúc ngi thì tu quán, còn các thi khác thì trì danh, s kiêm tu như thế so vi s chuyên tu mt pháp, bên nào hơn kém?

Đáp: Nhng tâm trm tnh thun túy, mun kiêm hay chuyên tu v quán tưởng hoc trì danh, cũng đu tt. Như chng thế thì chuyên trì danh có phn yên n hơn, vì người tâm chí phù bc rn ràng mà tu quán tt sanh nhiu ma chướng.

 

16. Hi: Khi quán tưởng thy cõi Cc lc, đó là cnh tht hay hin tượng gi?

Đáp: Quán tưởng thy cõi Cc lc là duy tâm hin ra, nếu cho rng gi, đó là k  ngoài ca.

 

17. Hi: Quán thy cõi Cc lc li có th nghe pháp, đó có phi là thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông chăng?

Đáp: Đó là do sc quán xui khiến, nếu thiên nhãn thiên nhĩ dù không quán cũng có th thy nghe.

 

18. Hi: Có k nói: “Thy Pht là Pht t tâm, không phi Pht Tây phương.” Thế thì khi vãng sanh, Pht t tâm hin hay là đc A Di Đà đến tiếp dn?

Đáp: Khi lâm chung thy Pht là do t tâm chiêu cm, không nên đem v t tâm mà cho rng không có Pht Tây phương đến tiếp dn.

 

19. Hi: Vãng sanh v bc thượng, dường như không phi là v vãng sanh ca k tu quán. Chng biết v vãng sanh ca k tu quán như thế nào?

Đáp: Phm v vãng sanh sai khác muôn ngàn, trong kinh ch ly chín phm đ gm nhiếp. Ngươi do đâu mà đoán Thượng phm không phi là v vãng sanh ca k tu quán? Nên biết căn tánh chúng sanh không đng, cũng như trong mt pháp tu mà có cao thp khác xa. Vy không nên khăng khăng lun riêng v bên pháp, bi đó còn do tâm lc ca mi người. Như đc Văn Thù, Ph Hin, ngươi cho rng hai v y không dùng quán pháp sao?

 

20. Hi: Pháp ký s nim Pht, hơi th vào nim sáu câu, hơi th ra nim bn câu, có phi thế chăng? Đã ký s và nim Pht, li cn nên tưởng Pht chăng?

Đáp: Nim Pht Ký S do t mt đến ba, t bn đến sáu, t by đến mười, đâu có quy đnh vào hơi th? Ngươi là người hc phép luyn đơn vn khí, nên va thy mt hai ch ging vi phép y, lin cho đó là công phu ca bên kia. Pháp Nim Pht Ký S vì nhng k khó ngăn tâm vng mà lp ra. Nếu có th nim, ghi nh và nghe rõ ràng như thế, quyết đnh tâm s ln ln điu phc. Trong y ai cho ngươi thêm hai ch “tưởng Pht” vào? Đây vn là pháp nim tùy tin, không nên lun theo hơi th. Nếu th ra vào quá lâu, tt s mang bnh tn hơi. Điu này cn phi lưu tâm và hiu rõ.



LI BT

 

 

Trong quyn ny, ta thn Quang Pháp Sư, v cách khuyến hóa, ch dùng li l bình thường chân tht, mà đim ct yếu duy  mt ch thành. Người hc đo biết đt chân t ch bình tht đi vào, thì không còn vng cu xa xôi; có chí thành khn thiết tt d cm thông vi Pht. S huyn diu ca đo chính là  ch đó. Cho nên thu xưa, mt v T Sư đã bo: 'Tâm bình thường là đo.' Nhưng, trên đường gii thoát, các tông khác tuy cũng dùng tâm bình thường thanh tnh làm căn bn, song ch nương  t lc, riêng môn Tnh Đ đã chuyên dùng t lc li kiêm chú trng v tha lc. Như bên tông Thin tuy tham cu câu nim Pht, nhưng ch dùng đó đ ngăn làn sóng vng tưởng, tr v tâm thanh tnh; bên tông Mt như phái Lt Ma giáo  Tây Tng, cũng có người chuyên trì danh hiu ca mt đc Pht, mt bc B Tát hay mt v thn, song h ch xem đó là mt câu chú, hoc mt đng ng h mà thôi. Tuy nhiên, nếu đem so sánh, ta thy bên Mt có đim thng hơn bên Thin, vì bên Mt trong khi tu nim đã biết gi ba nghip thanh tnh (tam mt tương ưng) đ tiêu tr vng tưởng đng thi li dùng công đc, năng lc ca chân ngôn hay hiu Pht, giúp sc phá tan hoc nghip, đ mau chng qu B Đ. Nhưng đó là nhng li tu hành ca bc thượng căn, hơn na chúng sanh t kiếp vô th đến nay gây nên nghip chướng vô lượng vô biên, dù có tu được, cũng khó hy vng trong mt đi phá hết phin hoc, thoát đường sanh t. Và mt khi nghip hoc còn chng mt my tơ, cũng b luân hi, mà đã luân hi tt d quên mt túc căn, b trn cnh mê m lôi cun vào trong lc đo! Khác hơn thế, môn Tnh Đ bc căn cơ thượng, trung, h đu có th tu; cách tu ch dùng tâm thanh tnh làm nn tng, ri t nơi đó khi công năng chí thành khn thiết nim danh hiu Pht cu sanh Tnh Đ. Nếu đ lòng tín nguyn trì danh, không lun người đã dt hết phin não, dù cho k nghip nng như bin c non cao, trong mt đi cũng được Pht tiếp dn sanh v Tnh Đ. Khi nim Pht chí thành, trong y có ba năng lc: sc Pht, sc Pháp và sc công đc không th nghĩ bàn ca t tâm. Sc Pht là được Pht phóng quang nhiếp th, thường thường h trì. Sc Pháp là hng danh A Di Đà vn đy đ muôn đc, chí thành nim mt câu tt s tiêu ti nng sanh t trong tám mươc kiếp, phước hu tăng thêm. Sc công đc ca t tâm là tâm ta có đ mười pháp gii, trong khi ta nim Pht thành khn, thì pháp gii ác b tiêu ngưng, pháp gii lành biến chuyn ln mãi cho đến khi thành thc, kết qu lúc mng chung s hóa sanh trong liên bào nơi cõi Tây Phương. - đây, ta cn nên phân bit có hai li nim Pht tương t như Tnh Đ mà không phi thuc v tông Tnh Đ: 

1/ Ni
m Pht tương tc mong đàn áp vng tưởng chng ng bn tâm, không cu vãng sanh, ging như tông Thin. 

2/ Nim Pht như trì mt câu thn chú, mong Phng h cho xa lìa ma chướng, tiêu hoc nghip, hin đi phước hu tăng thêm, mà không cu vãng sanh, ging như tông Mt. 

Nim Pht như thế là lc vi đường li ca Tnh Tông, ch được kết qu nh mà mt s li ích ln. Nếu người biết trì nim hiu như gi gìn bn mng, ch tha thiết cu sanh Tây Phương, thì tuy không cu dt phin não mà phin não t tiêu, không cu sanh phước hu mà phước hu t nhiên thêm ln, cho đến không cu chng ng mà hoc sm hoc chy cũng được chng ng; kết qu trong mt đi s thoát vòng luân chuyn, lên v Bt Thi nơi cõi bo liên. Thế thì ch thành tâm nim Pht cu vãng sanh, trong y đã có đ Thin và Mt ri. Cho nên n Quang Đi Sư thường nói: 'Pháp môn Tnh Đ thng nhiếp c Thin, Giáo, Lut, cao siêu hơn Thin, Giáo, Lut.' 

Môn Nim Pht xem gin d mà có công năng rt huyn diu như thế, nên mt hng người hc Pht vì nhn thc không thu đáo, sanh tâm t cao, bài báng, khinh thường. Bi thế, có k dn câu nim Pht đem v lý tánh, cho li nói trong các kinh Tnh Đ là tượng trưng. Li có mt hng người nhiu chng t ngoi đo, đem sáu ch nim Pht b khp chi th, hoc hp câu nim Pht vi phép luyn khí cho đi tun hoàn trong châu thân, hoc dùng câu nim Pht t ha nơn đường. H li lm cho đó là quí báu, ch mt th nhau trong phòng kín không dám tuyên dương, s e lm truyn. S lm ly khiến cho nhiu người mang chng ln bng, m mt, đau đu, kết cuc ch có tn hi không được li ích. Nên biết pháp môn Tnh Đ chính do đc Thích Ca Mâu Ni nói ra, sáu phương chư Pht đu khen ngi; các bc Đi B Tát, Đi T Sư như đc Văn Thù, Ph Hin, Mã Minh, Long Th đu tuân gi; các Kinh Đi Tha như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Đi Bo Tích, Đi Bát Nhã đu tuyên dương. K ngoi đo vì tà kiến, hy báng môn Tnh Đ, vn không đáng nói; hàng Pht t nếu sanh tâm t cao hy báng, tc là vô tình hy báng ngôi Tam Bo, ngăn lp con đường giác ng ca mi người. Ti sao thế? Vì môn Tnh Đ là ca mu gii thoát duy nht, yên n nht ca chúng sanh đi mt pháp; chính đc Pht đã tng có li huyn ký thu xưa. 

Trên đây, không phi tôi c ý phân bit môn Tnh Đ gia các tông phái, hay thiếu m cm vi nhng k đã lm lc, mà chính vì tưởng nim ân sâu ca Pht, mun cho mi người đng được li ích đó thôi. Tuy nhiên, trên đường đo, s thích ca mi người có khác nhau, khúc nhc hương quê chưa d cm được lòng du khách! Xem quyn ny, ai có mếẤn Quang Pháp Sư, cũng nên theo Ngài mà đc bài ca quy kh:


Phi nên phát nguyn, nguyn vãng sanh, 
Đ
t khách sơn khê mc người luyến? 
T
 không mun v, v s được, 
Quê x
ư
a trăng gió có ai tranh?

 

NGƯỜI BN SEN


CHUNG



VƯỜN THƠ TNH Đ

 

 

Ta bà cõi nghip s tung hoành,

Nói đến Liên bang mng cũng thanh,

Hơi th chng vào nghìn kiếp hn,

Tc lòng dám b sáu thi danh?

Như gà p trng lin hơm,

T la nung vàng luyn mi tinh

Mt nim gc tình tr sch hết,

Tánh chơn l l khi viên minh.

 

(Châu Quang Cư Sĩ)

 

 

Cnh yên, người vng, gia thanh tiêu,

Siêng gi thân tâm dám tr kiêu?

Chém đt nim trn dây nghip rm,

Phá tan ý vng núi mê cao.

Git châu nh Pht, châu chưa dt,

Mi tưởng quy Tây, tưởng li nhiu!

Nhng mến đài sen hoa cánh ngc,

Nghĩ cho tên h đã đ nêu.

Tháng h ngày tàn tiết nóng sao!

Trong bu ha trch chu hng thiêu.

Mt vùng cây biếc che lu các,

Mươi dm sen tươi chói ha kiu.

Mt ngm tri Tây lòng ng ngn

L theo tiếng Pht d tiêu điu.

Bao gi v được ao trong mát?

Trn ly bao nhiêu sch by nhiêu!

 

(Thn Hương Trai Ch)

 

 

Lúc đi d thun nim Di Đà,

Mt Pht tùy theo mt bước qua.

Dưới gót hng thi chơi Tnh đ,

Trong tâm mi nim cách Ta bà.

Do quanh hoa liu nhưng thường nh,

Lên xung non sông vn chng xa.

Đi lúc vãng sanh v Cc lc,

Mười phương du ngon t như mà!

Khi nm nim Pht lng âm thinh,

Hơi th nương theo gi hiu danh.

Mt gi gió thanh trong vn dm.

Na giường trăng sáng khong ba canh.

Đã không trn ly tâm yên tnh.

Duy có liên hoa mng d thành.

Gic đip mơ màng chư Pht hin,

Tnh ra còn vn nh phân minh.

 

(Tĩnh Am Pháp Sư)

 

 

Đi người trăm tui, ai trăm tui?

Chuyn cũ quay nhìn, chuyn mng mê!

Nghĩ khóc đng lưu đi lc mt,

Lãng quên cõi Tnh chng lo v!

 

(Phm Kỳ Thin Sư)

 

 

Đêm dài d mng v thôn cũ,

Năm hết không quên phn l hành.

Mười vc đường quê Cc lc,

Tc lòng mang mnh nhng thâu canh!

 

(Tư T Lão Nhơn)

 

 

 

Nói đến vô thường mi vic khinh,

Đói ăn khát ung biếng kinh dinh.

Mt lòng chuyên hướng tri An dưỡng.

“Vn thin đng qui” nh Vĩnh Minh!

Mãng tưởng ngày v cha đến ngày,

Bên tri du t mng hn bay!

Tnh mơ, tiếng nhn rơi đêm vng,

Tin tc min Tây chm vãng lai?

 

(S Thch Lão Nhơn)

 

 

Tóc sương thay mái đu xanh,

Mt đi s nghip nghĩ thành không hoa!

Soi bn phn

Lánh đường tà.

Âm thm thi tiết đi.

Lng l tháng ngày qua.

Kíp mau tìm đến chơn thường l,

Dám chm ch xem bnh t mà!

Cõi Pht đâu xa cách?

V chăng ch ti ta!

Mi nim ch cn không thi chuyn.

Áo vàng đã sn có Liên Hoa.

Thân tàn v cõi báu,

Sen n thy Di Đà!

 

(Liên n Thin Sư)

 

 

Lu quỳnh cách bit nhng năm xưa,

Li cũ đường xa bước tr v,

Tháng ngày h hng,

Tóc đim hoa lê!

Lòng theo bóng nguyt tri Tây xế,

Tai lng nghe chim tiếng nh quê

Lá thu rơi rng...

Tc d não n!

Đnh trm xông đt ngân hơi khánh,

Hướng cõi Liên bang phát nguyn th:

Ta bà đã chán chê...!

 

(Tra Am Thin Sư)

 

 

Ngày tháng chim lng quanh qun,

Thân người bèo nước linh đinh

Trăm năm tm gi kiếp phù sanh,

Há li mơ màng chng tnh?

Đem mi trn duyên giũ sch,

Đng cho mng cnh lưu đình.

Di Đà sáu ch y chơn kinh,

Đường li tu hành tip knh!

Chng lun sang, hèn, ngu, trí.

Không phân già, tr, gái, trai.

Có tâm làm được đng Như Lai,

Li tht lưu truyn vn ti!

Sáu ch Di Đà rt d,

Mt lòng tưởng nim đng sai.

Thân này th chiếm t kim đài,

Gng gi nim tâm ch trái!

 

(Linh Thoi Thin Sư)

 

 

Hơn sáu mươi năm,

Thoáng dường xuân mng.

Tnh ra thôi mt gic hoàng lương!

Phù hoa bóng huyn,

Có my phong quang?

Nhìn xem đã rõ...

Ct mi tơ vương,

Mc k lao nhao chn hí trường!

Lu tranh núi biếc,

Bn phn lo lường

Tùy duyên thong th.

Ra bát đt hương.

Đem tâm quy hướng cõi thanh lương!

Mênh mang bin nghip,

Đau kh bao dường!

Quay đu trông li thy thêm thương!

 

(Trang Nghiêm Cư Sĩ

Dch-thut N.B.S)

Comments

Popular posts from this blog